Trong tất cả các quyền con người phải khẳng định quyền sống là quyền quan trọng nhất có vai trò tối thượng. Bởi đơn giản khi một con người không có quyền sống thì mọi thứ đối với họ cũng trở nên vô nghĩa. Thế nhưng để nhận thức về cái quyền tối thượng ấy của mình một cách đầy đủ không phải ai cũng có được, thậm chí còn khá nhiều người hiểu theo nghĩa rất hẹp là quyền không bị tước bỏ mạng sống một cách trái luật. Hay nói cách khác, họ hiểu quyền sống là quyền được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe. Chính cách hiểu đúng nhưng chưa đầy đủ nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức về các quyền và nghĩa vụ khác của công dân trong việc thực thi các chính sách của Nhà nước liên quan đến quyền con người đã được ghi nhận trong các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. Bài viết này xin chia sẻ cùng bạn đọc một cách khái quát nội dung khái niệm "quyền sống" được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, thông qua việc giới thiệu các nội dung ghi nhận về quyền sống trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (gọi tắt theo tiếng Anh là Công ước ICCPR) và các bình luận liên quan của Ủy ban quyền con người; đặc biệt là quá trình nội luật hóa của Nhà nước ta trong hàng chục năm qua trên nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Điều 6 Công ước ICCPR ghi nhận: "Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện". Trên cơ sở ghi nhận này của Công ước ICCPR, Điều 19 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật". Đây là quy định nhằm tiếp tục tạo cơ sở pháp lý cho việc nội luật hóa quyền sống của con người trong các luật chuyên ngành phù hợp với Công ước ICCPR theo xu thế hội nhập và phát triển của đất nước ta trong giai đoạn mới. Nội dung quyền sống theo Hiến pháp 2013 phải được hiểu và giải thích đúng theo tinh thần Công ước ICCPR, với một số điểm cần lưu ý sau: Thứ nhất, quyền sống là "quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể bị vi phạm...". Tình trạng khẩn cấp quốc gia có thể được hiểu là tình trạng do Chủ tịch nước tuyên bố khi đất nước ở trong thời kỳ gặp thiên tai hay có bạo loạn ở mức đặc biệt nghiêm trọng. Cho dù như vậy cũng không thể coi là lý do để tùy tiện tước đi mạng sống của con người. Thứ hai, quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng. Hơn thế, quyền này bao gồm tất cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con người. Theo cách tiếp cận này, việc bảo đảm quyền sống còn đòi hỏi các quốc gia thành viên phải tiến hành có hiệu quả những biện pháp để làm giảm tỉ lệ chết ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình quân của người dân, cụ thể như các biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng và các dịch bệnh... tức là bao gồm cả các biện pháp thụ động và chủ động. Thứ ba, việc bảo đảm quyền sống của con người đồng nghĩa với việc ngăn chặn các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống như chiến tranh và các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại. Vì vậy, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống. Thứ tư, các quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tuỳ tiện tước đoạt tính mạng con người do bất kỳ chủ thể nào gây ra. Liên quan đến vấn đề này, việc bắt cóc người và đưa đi mất tích cũng bị coi là một trong những hình thức tước đoạt quyền sống, do đó, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đưa ra những giải pháp hiệu quả để phòng chống và điều tra các vụ việc về bắt cóc, mất tích của cá nhân. Thứ năm, về quy định hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự và quyền sống. Mặc dù Công ước ICCPR không bắt buộc các quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt này, tuy nhiên, các quốc gia có nghĩa vụ phải hạn chế sử dụng nó, cụ thể là chỉ được áp dụng hình phạt này với "những tội ác nghiêm trọng nhất", căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện; việc giới hạn áp dụng hình phạt tử hình cũng được coi là một hình thức bảo đảm quyền sống. Thứ sáu, người bị kết án tử hình có quyền xin ân giảm hoặc xin thay đổi mức hình phạt. Việc ân xá, ân giảm hoặc chuyển đổi hình phạt tử hình có thể được áp dụng đối với mọi trường hợp. Thứ bảy, không được phép tuyên án tử hình đối với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai. Theo Công ước ICCPR việc ghi nhận quyền sống không đồng nghĩa với việc phải xóa bỏ hình phạt tử hình. Tuy nhiên, ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xoá bỏ thì chỉ được phép áp dụng hình phạt này với những tội ác nghiêm trọng nhất. Đối chiếu các nội dung quan điểm bình luận của Ủy ban quyền con người về quyền sống, ta thấy Hiến pháp và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến quyền sống về cơ bản phù hợp với các chuẩn mực nền theo quy định của Công ước ICCPR. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật cũng đã có các quy định nhằm bảo đảm quyền sống như: Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (đang được điều chỉnh), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016... Bên cạnh đó là các văn bản dưới luật (Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư của các Bộ, ngành) cũng có những hướng dẫn, quy định bảo đảm quyền sống cho mọi người theo tinh thần Công ước ICCPR. Đặc biệt là các quyền liên quan đến tự do thân thể đã được quy định khá cụ thể để bảo đảm quyền của những người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người chấp hành án phạt tù trong quá trình tham gia tố tụng. Việc bắt người phải có quyết định của Toà án, quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Một người chỉ bị coi là có tội khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật do Tòa án tuyên. Về hình phạt tử hình, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã từng bước được sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm số điều luật quy định hình phạt tử hình tại Bộ luật Hình sự (năm 1999) từ 29 điều (chiếm tỷ lệ 11%) sau khi sửa đổi năm 2009 giảm xuống còn 22 điều (chiếm tỉ lệ 8%) và đến Bộ luật Hình sự 2015 tiếp tục giảm xuống còn 15 điều (chiếm tỉ lệ 5%). Bên cạnh đó Bộ luật Hình sự 2015 còn mở rộng đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình (đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi tuyên án). Biện pháp thi hành án tử hình cũng được sửa đổi theo hướng nhân đạo hơn, chuyển từ hình thức bắn sang tiêm thuốc; quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình. Mặc dù hình phạt tử hình được quy định áp dụng đối với 15 tội danh, nhưng trên thực tế các Tòa án chủ yếu áp dụng đối với một số trường hợp phạm tội giết người và tội sản xuất, mua bán trái phép chất ma túy. Thực tế cho thấy, mặc dù ở đâu đó quyền sống của con người (nhất là về tính mạng) vẫn còn bị xâm phạm nghiêm trọng; tuy nhiên nhìn từ góc độ thể chế và sự thực thi trên thực tế có thể khẳng định quyền con người nói chung và quyền sống nói riêng ở nước ta nhìn từ quá khứ đến hiện tại là một quá trình phát triển và hoàn thiện có tính tính liên tục như một xu hướng tất yếu./.
Kỳ Sanh & Quỳnh Ly |