Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (TTHS) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, có nhiều nội dung mới phù hợp yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần các Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 26/5/2005 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Trong phạm vi bài này, tôi xin đề cập những điểm mới trong Bộ luật TTHS 2015 về chứng cứ và thu thập chứng cứ so với Bộ luật TTHS 2003, để làm rõ mô hình tố tụng mới kết hợp thẩm vấn với tranh tụng nhằm giảm thiểu oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm trong giai đoạn xét xử tại Tòa án. 1. Chứng cứ Điều 86 BLTTHS 2015 qui định: "Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này qui định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án". So sánh với Bộ luật TTHS 2003 thì Bộ luật TTHS 2015 mở rộng chủ thể có quyền thu thập chứng cứ là người bào chữa, chứ không chỉ là các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Với việc cho phép người bào chữa tham gia thu thập chứng cứ đã tạo điều kiện để việc phát hiện và xử lý tội phạm được nhanh chóng, hơn nữa góp phần đáng kể trong việc tạo được sự bình đẳng giữa người buộc tội và gỡ tội, bình đẳng trong việc tranh tụng tại phiên tòa và có thể nói đây là bước đột phá trong tư duy về cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự. 2. Nguồn chứng cứ Nguồn chứng cứ trong Bộ luật TTHS 2015 được tách ra từ Điều 64 Bộ luật TTHS 2003 để thiết kế thành hai điều luật riêng: Chứng cứ (Điều 86 Bộ luật TTHS 2015) và Nguồn chứng cứ (Điều 87 Bộ luật TTHS 2015). Việc tách bạch này có ý nghĩa lớn nhằm tránh sự nhầm lẫn dẫn đến đồng nhất giữa chứng cứ với nguồn chứng cứ trong hoạt động tố tụng hình sự. Nguồn chứng cứ bao gồm: Vật chứng, lời trình bày của đương sự, dữ liệu điện tử, hoạt động định giá tài sản, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác... Những yếu tố trong nguồn chứng cứ này chỉ có thể được coi là chứng cứ khi nó "là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định". Nói cách khác, không phải cái gì trong nguồn chứng cứ cũng đều được coi là chứng cứ, nếu như nó không có thật (VD: "vật chứng" được thay thế bằng một vật khác cùng loại) hoặc không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS 2015 quy định. 3. Thu thập chứng cứ Điểm mới đáng chú ý của thu thập chứng cứ theo TTHS 2015 là ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ theo đề nghị của người bào chữa. Đây là trường hợp người bào chữa không thể tự mình thu thập chứng cứ được, nội dung này thể hiện sự mở rộng quyền của người bào chữa, đúng theo tinh thần đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Về hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa, BLTTHS 2015 bổ sung quyền tự thu thập chứng cứ của người bào chữa (khoản 1 Điều 73, khoản 2 Điều 88); trong khi Bộ luật TTHS 2003 cũng có qui định, nhưng chưa thừa nhận đó là thủ tục hợp. Như vậy Bộ luật TTHS 2015 cho phép người bào chữa có cơ sở pháp lý để tự mình thu thập chứng cứ hoặc đề nghị các cơ quan khác thu thập chứng cứ. Việc bổ sung quyền này góp phần làm cho vụ án được xem xét một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ hơn. Khoản 5 Điều 88 có quy định trình tự thu thập tài liệu trong hoạt động điều tra mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển giao cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát đóng dấu bút lục, sao lưu sau đó bàn giao lại cho cơ quan điều tra. Đây cũng là trình tự mới bổ sung để Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm soát toàn bộ các tài liệu thu thập được, tránh được những sai sót trong việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự. Với những quy định mới nêu trên đã thực sự nâng cao vị thế pháp lý của người bào chữa khi tham gia tố tụng hình sự, góp phần đáng kể trong việc giảm oan sai đối với người vô tội, đảm bảo quyền tranh tụng, quyền bào chữa cho người bị buộc tội./.
Lê Hăng Vân |