Trách nhiệm dân sự của các thành viên trong hộ gia đình đối với hành vi do chủ hộ xác lập |
Thứ năm, 24 Tháng 10 2013 09:33 - 3766 Lượt xem |
|
|
Chế định Hộ gia đình được quy định tại Mục 1, Chương V, Bộ luật Dân sự 2005, trong đó có quy định về trách nhiệm của các thành viên trong hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện nhân danh hộ gia đình. Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình. Như vậy, pháp luật hiện hành đang quy định trách nhiệm liên đới đối với các hành vi do người đại diện hộ gia đình thực hiện nhân danh hộ gia đình. Rõ ràng quy định này bảo vệ cho phía còn lại trong các giao dịch dân sự với người đại diện hộ gia đình. Tuy nhiên, đứng về phía các thành viên trong hộ gia đình, trong nhiều trường hợp quy định này lại “gây thiệt hại” cho họ khi mà người đại diện hộ gia đình (chủ hộ) lợi dụng danh nghĩa hộ gia đình để thực hiện giao dịch dân sự vì mục đích riêng. Đành rằng mối quan hệ giữa các thành viên trong hộ gia đình là mối quan hệ đặc biệt, rất khăng khít, mật thiết và trong phần lớn các trường hợp còn có sự ràng buộc về mặt huyết thống. Tuy nhiên điều đó không phải là căn cứ loại bỏ việc người chủ hộ lợi dụng danh nghĩa hộ gia đình để thực hiện giao dịch dân sự với mục đích riêng. Chúng ta cùng phân tích ví dụ sau để thấy một số khía cạnh bất cập của quy định hiện hành: Ông A là chủ hộ gia đình làm nghề sản xuất, kinh doanh túi nilon. Ông A cũng là người trực tiếp tham gia ký kết với các đối tác các hợp đồng cung cấp sản phẩm do gia đình mình sản xuất. Thế nên, khi ông A đến gặp ông B hỏi vay số tiền 500 triệu để làm vốn sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình thì ông B không nghi ngờ gì và liền đồng ý. Hai bên viết giấy vay số tiền 500 triệu với kỳ hạn 6 tháng, lãi suất 1,1%/ tháng. Với số tiền 500 triệu trên, ông A dùng 200 triệu để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của hộ gia đình. 300 triệu còn lại, ông A dùng vào mục đích cá nhân, chủ yếu là chơi lô đề và cờ bạc. Hết thời hạn vay, ông B không thấy ông A trả nợ (cả lãi và gốc) cũng như khi đòi thì ông A thoái thác không muốn trả, do đó, ông B khởi kiện hộ gia đình của ông A với yêu cầu trả nợ. Tòa án sơ thẩm bác đơn khởi kiện của ông B vì cho rằng đây là vay giữa cá nhân ông A với ông B chứ không phải giữa hộ gia đình với cá nhân. Ông B kháng cáo lên tòa phúc thẩm, Tòa phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B nhưng chỉ giải quyết việc khởi kiện trả nợ trong phạm vi 200 triệu chứ không phải 500 triệu. Chúng ta có thể thấy sự khác biệt rất lớn trong cách giải quyết của tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Điều này có lẽ là do sự nhập nhằng trong việc xác định giao dịch mà ông A thực hiện là với tư cách cá nhân hay đại diện hộ gia đình? Trong trường hợp này, về mặt lý thuyết, ông A đã thực hiện giao dịch trên danh nghĩa hộ gia đình; và thực tế ông cũng đã dùng một phần số tiền vay để đưa vào việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình. Do đó tôi tán đồng quan điểm giải quyết của tòa án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, nếu theo quy định của Bộ luật Dân sự như chúng ta đã đề cập ở trên thì một khi Tòa án (cấp phúc thẩm) đã xác định giao dịch của ông A là trên danh nghĩa hộ gia đình thì Tòa cũng phải buộc các thành viên còn lại liên đới chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền 500 triệu mà ông A đã vay, chứ không phải chỉ là 200 triệu đồng. Và nếu Tòa phúc thẩm xử theo chiều hướng này thì rõ ràng phần thiệt thòi thuộc về các thành viên còn lại trong hộ gia đình, như vậy rõ ràng là “có vấn đề” trong việc xác định tư cách chủ thể của ông A trong giao dịch với ông B. Do đó, cách xử lý thực tế của Tòa phúc thẩm có thể xem là hợp lý dù rằng nó “chưa sát” với quy định của Bộ luật Dân sự. Để thuận lợi cho các cấp Tòa án trong việc áp dụng pháp luật trong những trường hợp tương tự như trên, theo tôi, pháp luật dân sự nên có những quy định cụ thể về điều kiện xác định tư cách chủ thể của đại diện hộ gia đình trong mỗi giao dịch dân sự. Chẳng hạn, quy định những giao dịch do người đại diện hộ gia đình thực hiện trên danh nghĩa hộ gia đình có giá trị lớn (nên đưa ra con số cụ thể định lượng) bắt buộc phải có văn bản thống nhất của các thành viên hộ gia đình (các thành viên có thể lập chung và ký tên trên cùng một văn bản). Như vậy mới có cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm liên đới của các thành viên đã ký tên trong văn bản thống nhất. Làm được như vậy, các cấp Tòa án sẽ dễ dàng xác định và giải quyết thỏa đáng đâu là trách nhiệm riêng của chủ hộ đâu là trách nhiệm liên đới của các thành viên, đồng thời tránh trường hợp người đại diện hộ gia đình lạm dụng danh nghĩa hộ gia đình để thực hiện những giao dịch nhằm mục đích riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan đều được bảo đảm./. Vĩnh Can
Tin mới:
Các tin khác:
|