• Trang chủ
  • |
  • Tư vấn pháp luật
  • |
  • Hộp thư công vụ
  • |
  • Liên hệ
  • Giới thiệu hội đồng PBGDPL
  • Thông tin tuyên truyền, PBGDPL
  • Nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật
  • Đề cương tuyên truyền pháp luật
  • Chính sách pháp luật
  • Nghiên cứu trao đổi
  • DS báo cáo viên pháp luật tỉnh
  • Tài liệu hòa giải cơ sở
  • Sự kiện - Bình luận
  • Tiếp cận pháp luật
  • Lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL

Tiểu phẩm tuyên truyền PL

  • Tôi đã sai rồi
  • Cái nương là của nhà mình
  • Bài học đắt giá
  • Dân kiểm tra
  • Như là tai họa

Liên kết bổ ích

  • Bài giảng trực tuyến
  • Tủ sách pháp luật
  • Tờ gấp, pano, áp phích
  • Cổng thông tin điện tử pháp điển
  • Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam

Liên kết web

Thống kê truy cập

Hiện có 33 khách Trực tuyến
HTML Hit Counter
Điểm mới của Bộ luật Hình sự 2015 về thời hiệu truy cứu và miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
 Thứ tư, 13 Tháng 4 2016 07:48 - 2437 Lượt xem
PDF. In Email

1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự (BLHS) quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định này đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng là cần khẩn trương truy tìm, điều tra tội phạm và người phạm tội để bảo đảm nguyên tắc mọi tội phạm đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; mặt khác, quy định này cũng là cơ sở pháp lý nhằm “giải tỏa” cho người có hành vi phạm tội sau một thời hạn nhất định, mà trong thời hạn đó họ không thực hiện thêm bất kỳ một tội phạm mới nào.

BLHS năm 2015, ngoài việc vẫn giữ nguyên quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI, khoản 3 Điều 28 còn bổ sung thêm hai tội khác vào các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: (i) Tội tham ô tài sản theo khoản 3 và khoản 4 Điều 353; (ii) Tội nhận hối lộ theo khoản 3 và khoản 4 Điều 354.

Nói cách khác, người phạm tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ không được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là một quy định mới, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tệ tham nhũng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, phức tạp như hiện nay.

2. Trên cơ sở kế thừa Điều 25 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 29 BLHS năm 2015 được thiết kế lại theo hướng quy định cụ thể các trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 1) và các trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2) nhằm góp phần giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, tạo cơ sở pháp lý linh hoạt cho cơ quan tố tụng khi xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự, trong một số trường hợp nhất định. Cụ thể là:

Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 29, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ: (i) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; (ii) khi có quyết định đại xá.

Thứ hai, theo khoản 2 Điều 29, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ: (i) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; (ii) khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; (iii) người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đáng lưu ý là khoản 3 Điều 29, quy định: “Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.

Như vậy, so với BLHS năm 1999 (SĐBS năm 2009), khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm tình tiết “lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận”, có thể được miễn trách nhiệm hình sự; đồng thời khoản 3 Điều 29 bổ sung trường hợp “người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.

Ví dụ: Đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, lâu nay rất nhiều người lầm tưởng khi có đơn yêu cầu của người bị hại (thường gọi là đơn bãi nại) thì người phạm tội này có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (khoản 1 Điều 105) và cả Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (khoản 1 Điều 155), “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” không thuộc nhóm 11 tội danh chỉ bị khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Do đó, những người phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mặc dù đã được người bị hại chấp nhận hòa giải và có “đơn bãi nại” vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp có thể, được áp dụng theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015).

Trên đây là một quy định mới, mở rộng phạm vi đương nhiên và có thể  được miễn trách nhiệm hình sự, hạn chế việc xử lý bằng biện pháp hình sự đối với người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do lỗi vô ý. Khách thể của các tội danh này là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác./.

Hạ Trương


Tin mới:
  • Điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về xóa án tích
  • Bộ Tư pháp quy định về hoạt động thống kê ngành
  • Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
  • Kể từ ngày 01/7/2016, các khiếu kiện hành chính đối với UBND và Chủ tịch UBND cấp huyện do TAND cấp tỉnh giải quyết
  • Tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
Các tin khác:
  • Chính phủ quy định về sử dụng khoản ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi được gửi có kỳ hạn
  • UBND tỉnh ban hành quy định về thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
  • Quy định mới về mức thu phí vệ sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
  • Chính phủ ban hành Nghị định về Cơ sở dữ liệu quốc gia xử lý vi phạm hành chính
  • Hướng tới ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2011 (tt)
<< Trang trước   Trang kế tiếp >>

 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỈNH QUẢNG NAM

Trụ sở: 06 Nguyễn Chí Thanh - Thành phố Tam Kỳ - tỉnh Quảng Nam

Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Quảng Nam

Điện thoại: 0235.3852244 - Fax:0235.3852244 - Email: stp@quangnam.gov.vn

Email: stp@quangnam.gov.vn | Website: www.pbgdpl.quangnam.gov.vn

Ghi rõ nguồn "www.pbgdpl.quangnam.gov.vn" khi đưa lại thông tin từ website này