1. Hiểu thế nào cho đúng "án treo"? Khi nói đến án treo, có người đặt câu hỏi: "Án treo có phải là một loại hình phạt không?". Và đa số người nghĩ rằng khi Tòa án tuyên áp dụng một chế tài dành cho một người phạm tội nào đó và cho hưởng án treo, thì đương nhiên án treo là hình phạt áp dụng cho người có hành vi phạm tội rồi. Nhưng theo tinh thần của Bộ luật hình sự, xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn thi hành, thì án treo không phải là một loại hình phạt mà là một biện pháp áp dụng hình phạt tù có điều kiện. Theo đó, trước khi Tòa án cho một người hưởng án treo thì đầu tiên phải xem xét hành vi phạm tội của người đó, cùng với việc đánh giá về hậu quả, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... để ấn định một hình phạt cụ thể và nếu đó là hình phạt tù có thời hạn với mức án dưới 36 tháng, thì sau đó mới xem xét đến các điều kiện để cho hưởng án treo hay không. Các điều kiện để xem xét cho hưởng án treo, đó là: (i) mức phạt tù không quá 03 năm; (ii) nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ; (iii) xét thấy không cần thiết phải buôc cách ly ra khỏi xã hội... Để làm rõ thêm về án treo không phải hình phạt, có thể xem Điều 28 Bộ luật hình sự 1999, quy định các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, chung thân và tử hình; và Điều 32 Bộ luật hình sự 2015 cũng qui định tương tự. Như vậy án treo không phải là một loại hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự. Một câu hỏi khác cũng cần được làm rõ là "án treo" có nhẹ hơn "tù giam" không? Để hiểu vấn đề này cần phân biệt sự khác nhau giữa "án treo" và "tù giam". Án treo cũng là hình phạt tù có thời hạn nhưng người được hưởng án treo không phải chấp hành án tại các cơ sở giam giữ của Nhà nước; ngược lại, người bị phạt tù có thời hạn nhưng không được hưởng án treo thì phải chấp hành án tại các cơ sở giam giữ của Nhà nước. Qua phân tích trên, có thể thấy người được Tòa án cho hưởng án treo, tuy cũng là hình phạt tù có thời hạn, nhưng họ không bị hạn chế về quyền tự do đi lại, được sinh hoạt ngoài xã hội một cách "bình thường" và tham gia các hoạt động khác như sản xuất, kinh doanh... Đặc biệt, nếu người được hưởng án treo là công chức, viên chức thì không bị buộc thôi việc và được giao cho cơ quan nơi người đó làm việc để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Đây chính là điểm quan trọng để thấy rằng trường hợp người được hưởng án treo có nhiều "ưu ái" hơn trường hợp phải chấp hành án tại trại giam, như vậy cũng có thể hiểu là nhẹ hơn. Tuy nhiên, đối với người được hưởng án treo, vấn đề cần hết sức lưu ý là phải chịu thử thách trong thời gian từ 01 đến 05 năm, do Tòa án quyết định. Nếu trong thời hạn này mà người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo qui định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo (tức là vào trại giam để thụ án). Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này. 2. Những vấn đề cần bàn về án treo theo Bộ Luật hình sự 2015 - Bộ luật hình sự 1999 và Bộ Luật hình sự 2015 qui định về điều kiện cho hưởng án treo là khá cụ thể, rõ ràng, giúp cho các Tòa án áp dụng một cách chính xác nhất. Tuy nhiên, theo tôi ngoài những điều kiện như mức phạt tù không quá 03 năm, nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ..., BLHS cũng cần bổ sung tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội ăn năn hối cải là một tình tiết giảm nhẹ bắt buộc, bởi dù có nhân thân tốt mấy, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, song nếu thái độ người phạm tội không hối lỗi, không thấy được hành vi của mình là sai trái thì không lấy gì đảm bảo người đó sẽ không tiếp tục phạm tội mới. Do vậy, cần qui định trong hai tình tiết giảm nhẹ thì tình tiết giảm nhẹ bắt buộc phải có là ăn năn hối cải thì mới đủ điều kiện cho hưởng án treo. - Điểm mới cơ bản nhất của BLHS 2015 qui định về án treo là điều kiện và hậu quả pháp lý khi vi phạm điều kiện của án treo. Theo đó, BLHS 2015 bổ sung một trong những điều kiện để miễn chấp hành hình phạt tù người cho hưởng án treo của bản án đã cho hưởng án treo, theo qui định tại khoản 5 Điều 65 BLHS 2015, là trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo không cố ý vi phạm nghĩa vụ theo qui định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên và không phạm tội mới trong thời gian thử thách với bất kỳ loại tội nào và hình thức lỗi nào. Qui định điều kiện không cố ý vi phạm nghĩa vụ của án treo từ 02 lần trở lên là qui định mới, lần đầu tiên được ghi nhận trong BLHS. Tuy nhiên, theo tôi thì cần xác định cụ thể các nghĩa vụ tích cực, định lượng rõ ràng, dễ áp dụng, vì theo Điều 64 của Luật thi hành án hình sự thì có nhiều nghĩa vụ chung chung, khó xác định như: thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội qui, qui chế, tích cực lao động, học tập..., nói chung là nhiều nghĩa vụ khó lượng hóa trên thực tế, nên qui định như trên là khó áp dụng. Do vậy, chỉ cần qui định vi phạm các nghĩa vụ qui định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 64 của Luật thi hành án hình sự là đủ. Cụ thể: "Phải có mặt theo yêu cầu của UBND cấp xã được giám sát giáo dục và ba tháng một lần trong thời gian thử thách người được hưởng án treo phải nộp bản tự nhận xét về chấp hành pháp luật cho người trực tiếp giám sát, giáo dục; trường hợp đi khoải nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng thì phải có nhận xét của công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình cho UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục".
Lê Hằng Vân |