Bàn về trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền dân sự
 Thứ ba, 21 Tháng 4 2015 14:21 - 2271 Lượt xem
In

Bộ luật dân sự năm 2005 quy định nguyên tắc tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ (Điều 9). Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác chưa được pháp luật bảo vệ do chưa có quy định pháp luật điều chỉnh. Do đó, khi các quyền dân sự này bị xâm phạm các chủ thể không thể yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết.

Xuất phát từ thực tiễn trên, Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) đã bổ sung khoản 2 Điều 19, quy định như sau: Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 11 và  Điều 12 của Bộ luật này hoặc án lệ được áp dụng để xem xét, giải quyết”.

Quy định trên được hiểu là trong trường hợp phát sinh quan hệ tranh chấp trong lĩnh vực dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật cũng không có quy định trực tiếp để áp dụng thì Tòa án có thể áp dụng tập quán để giải quyết. Trường hợp tập quán cũng không có thì Tòa án áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự (tương tự pháp luật) để giải quyết. Và ngay cả trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật được thì Tòa án phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng để giải quyết. Đặc biệt, Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi còn đề cập đến việc áp dụng án lệ để xem xét và giải quyết tranh chấp dân sự.

Việc áp dụng linh hoạt các nguồn căn cứ được Bộ luật dân sự cho phép như trên sẽ góp phần xóa đi những “lỗ hổng” có thể phát sinh trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự do Tòa án tiến hành, đồng thời bảo vệ tối đa các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

 Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề trên, hiện đang có hai loại ý kiến khác nhau, một loại thống nhất cao với Dự thảo và loại ý kiến ngược lại là đề nghị không quy định vấn đề này trong Bộ luật dân sự.

Chúng tôi ủng hộ loại ý kiến thứ nhất đồng thời xin nêu một số quan điểm phản biện đối với loại ý kiến thứ hai. Bởi lẽ:

Thứ nhất: Việc quy định như Dự thảo sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân một cách kịp thời và triệt để, ngay cả trong trường hợp tranh chấp dân sự đó chưa có quy định của pháp luật điều chỉnh. Với hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện của chúng ta, không phải lúc nào cũng dự lường được hết được những tình huống, quan hệ xã hội phát sinh trên thực tế, nhất là quan hệ trong lĩnh vực dân sự không ngừng biến động và phát triển. Do đó, nếu vì lý do chưa có quy định pháp luật điều chỉnh mà Tòa án từ chối yêu cầu giải quyết của cá nhân, pháp nhân thì quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân không thể được bảo vệ một cách tốt nhất. Hơn nữa việc áp dụng pháp luật tương tự đang được Bộ luật dân sự hiện hành quy định tại Điều 3 là: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật.”

Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất rõ nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do đó, Dự thảo quy định Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng là phù hợp với quy định của Hiến pháp, tạo điều kiện cho việc triển khai thi hành các quy định của Hiến pháp vào cuộc sống.

Ngoài ra, trong lĩnh vực dân sự, ở nhiều nước trên thế giới thường áp dụng nguyên tắc “bất khẳng thụ lý; tức là, Tòa án không được từ chối giải quyết các vụ, việc dân sự kể cả trong trường hợp chưa có quy định của luật.

Nếu cho rằng việc quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự thì cần phải giao cho Tòa án quyền “giải thích pháp luật”, để trong trường hợp không có luật thì Thẩm phán, Hội thẩm căn cứ các nguyên tắc chung của pháp luật, niềm tin nội tâm và lẽ công bằng để đưa ra phán quyết, là một đòi hỏi thiếu thực tế.

Trong các bản Hiến pháp của nước ta đều không chính thức trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án, nhưng trong Luật Tổ chức TAND có giao thẩm quyền cho Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao “hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật”. Trên thực tế việc “giải thích pháp luật” thông qua các Nghị quyết hướng dẫn xét xử của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã và đang được tổ chức thiện hiện một cách có hiệu quả từ mấy chục năm nay.

Về quy định trong trường hợp nếu không có luật thì Thẩm phán, Hội thẩm căn cứ vào niềm tin nội tâm và lẽ công bằng để đưa ra phán quyết như Dự thảo, chúng tôi cho là rất phù hợpvới điều kiện hiện nay. Thử nhớ lại từ năm 1993 trở về trước, trong ngành Tòa án nhân dân, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đều do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra trên cơ sở giới thiệu của Mặt trận Tổ quốc; về chuyên môn được một số trung cấp pháp lý hoặc các khóa luân huấn (với thời hạn 3 tháng), còn lại là chưa qua đào tạo cơ bản. Trong giai đoạn này Bộ luật dân sự chưa được ban hành, một số pháp lệnh liên quan như Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự ... cũng chỉ được ban hành vào cuối những năm 1980. Trong điều kiện hệ thống pháp luật dân sự còn thiếu rất nhiều quy định và người áp dụng pháp luật lại thiếu chuyên môn đến như vậy, thì việc xét xử và đưa ra phán quyết cuối cùng phải dựa vào lẽ công bằng và niềm tin nội tâm là điều tất yếu. Thế nhưng niềm tin nội tâm và lẽ công bằng trong giai đoạn này đã được các bên tâm phục khẩu phục trước những phán quyết của các vị quan tòa. Trong điều kiện ngày nay, Thẩm phán các cấp đã được đào tạo chính quy, đội ngũ Hội thẩm nhân dân có kiến thức pháp luật, nhiều kinh nghiệm công tác và được lựa chọn kỹ càng, cùng với hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh thì chắc chắn niềm tin pháp lý của họ sẽ vững chắc hơn, lẽ công bằng mà họ vận dụng cũng chính xác hơn.

 Trong thực tế hoạt động xét xử các vụ án dân sự cho thấy, dù có căn cứ pháp luật đầy đủ nhưng trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng Hội đồng xét xử vẫn phải dựa vào niềm tin pháp lý của mình cũng như lẽ công bằng để thông qua một bản án đúng pháp luật và hợp đạo lý.

Thứ hai, với quan điểm cho rằng việc quy định Thẩm phán và Hội thẩm phải đưa ra phán quyết kể cả trong trường hợp không có luật là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, cũng là “chưa chuẩn”.

Có thể nói, đây là quy định nhằm hướng tới sự độc lập ngày càng thực chất hơn trong xét xử của Hội thẩm nhân dân, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, không phụ thuộc vào Thẩm phán. Trong những trường hợp pháp luật không điều chỉnh thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân hoàn toàn có thể độc lập vận dụng tập quán, quy định tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để giải quyết. Niềm tin pháp luật được vận dụng càng độc lập thì kết quả biểu quyết theo đa số càng khách quan.

Thứ ba, quan điểm cho rằng quy định này thiếu tính khả thi vì việc thực hiện trên thực tế đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải được đào tạo một cách bài bản về nghiệp vụ, kỹ năng giải thích pháp luật; theo chúng tôi cũng không thực tế.

Như ở phần trên chúng tôi đã trình bày, trước những năm 1980, hầu như Tòa án các cấp rất thiếu công cụ để xử lý các tranh chấp dân sự, nên chủ yếu là đúc kết các kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử. Trong khi đó, hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án các cấp nhất là cán bộ có chức danh tư pháp đều đã được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp; đa số cán bộ, công chức Toà án có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác. Đội ngũ Hội thẩm đều là những người có trình độ hiểu biết pháp luật, được tập huấn về nghiệp vụ Tòa án, nhiều người nguyên là cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, một số người nhiều nhiệm kỳ tham gia công tác Hội thẩm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận cán bộ còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tinh thần trách nhiệm trong công tác chưa cao thậm chí còn có những hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ tối đa quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, một trong những nhiệm vụ trọng tâm công tác của ngành Tòa án nhân dân là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch vững mạnh. Trong đó, việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm xét xử, phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán được xác định vừa là yêu cầu và vừa là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tòa án.

Thứ tư, quan điểm cho rằng quy định này liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của Tòa án, cần nghiên cứu để nếu cần thiết thì quy định trong Luật tổ chức Tòa án hoặc Bộ luật tố tụng dân sự.

Phải thừa nhận rằng, quy định liên quan đến trách nhiệm của Tòa án phải được ghi nhận trong Luật tổ chức Tòa án hoặc Bộ luật tố tụng dân sự như là một nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Xuất phát từ tầm quan trọng này, việc quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân trong Bộ luật dân sự cũng rất cần thiết, là cơ sở pháp lý để cá nhân, pháp nhân nắm bắt và bảo vệ quyền dân sự của mình.

Như vậy, việc quy định trách nhiệm Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng không chỉ góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân mà còn nâng cao trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền dân sự. Do đó, Bộ luật dân sự sửa đổi cần quy định cụ thể, chi tiết vấn đề này./.

Kỳ Sanh –Minh Tâm


Tin mới:
Các tin khác: