Trao đổi thêm về bài viết “Cần có sự thống nhất trong việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định của pháp luật hiện nay”
 Thứ hai, 13 Tháng 1 2014 09:55 - 2023 Lượt xem
In

Ngày 02/01/2014, trên Cổng thông tin điện tử của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh có đăng bài viết “Cần có sự thống nhất trong việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định của pháp luật hiện nay”, về vấn đề này, tôi có thêm một số ý kiến như sau:

Theo quy định của pháp luật, UBND cấp xã nơi cư trú của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đó đối với những trường hợp độc thân hoặc chưa kết hôn. Trong trường hợp người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ, có chồng, nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã chết, thì phải xuất trình trích lục Bản án/Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về việc ly hôn hoặc bản sao Giấy chứng tử.

Trên thực tế, hiện nay đã phát sinh vấn đề xác nhận tình trạng hôn nhân cho người chung sống như vợ như chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn. Theo quy định tại Nghị quyết 35/2000 của Quốc hội thì những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Dù rằng không đăng ký kết hôn nhưng pháp luật vẫn thừa nhận và công nhận là vợ chồng, nên   UBND cấp xã có quyền từ chối xác nhận tình trạng độc thân theo quy định tại Điều 1 Nghị định 06/2012. Bên cạnh đó, việc xác định thời điểm chung sống như vợ như chồng trước hoặc sau ngày 03/01/1987 là việc rất khó khăn, phụ thuộc vào người khai, chưa tính đến yếu tố lừa dối.

Tuy nhiên, ngày 23/8/2011, Bộ Tư pháp ban hành Công văn số 4982/BTP-VP về việc trả lời các đề xuất, kiến nghị của địa phương lại nêu rõ “ ...những người chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 nhưng hiện nay không còn chung sống với nhau thì cũng không được coi là người đang có vợ hoặc đang có chồng. Như vậy, những trường hợp nêu trên không phải yêu cầu đương sự làm thủ tục ly hôn. Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên có yêu cầu ly hôn thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng (Điểm c, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10)”.

Nội dung hướng dẫn nêu trên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau bởi vì khái niệm “không còn chung sống với nhau” cần hiểu như thế nào cho đúng, về khía cạnh ý chí hay thực tế? Xét về mặt ý chí, đối với những trường hợp không còn coi nhau như vợ chồng và không còn chung sống với nhau nữa thì không được coi là người đang có vợ hoặc đang có chồng là điều dễ hiểu (phù hợp với Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000“Người đang có vợ hoặc chồng là: Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”). Tuy nhiên, trong thực tế lại có nhiều trường hợp vẫn coi nhau là vợ chồng bình thường, nhưng vì hoàn cảnh hay lý do nào đó khiến họ không chung sống với nhau được nên phải sống mỗi người một nơi (ví dụ: cha ở với con trai tại Đà Nẵng, mẹ ở với con gái tại Sài Gòn), giữa họ vẫn tồn tại mối quan hệ hôn nhân thực tế, thì vẫn phải xem họ người đang có vợ hoặc đang có chồng.

 Chỉ một vấn đề mà có cách hiểu và thực hiện khác nhau đã gây khó khăn cho cấp cơ sở trong việc xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định của Nghị định 06/2012. Và đương nhiên sẽ xảy ra ở đâu đó tình trạng “hiểu thế nào thì làm thế ấy”, cho nên cấp xác nhận tình trạng hôn nhân cho đương sự cũng được mà “không cấp cũng được”. Do đó, vấn đề nêu trên cũng cần có hướng dẫn cụ thể để việc áp dụng pháp luật mang tính thống nhất cho tất cả mọi địa phương./.

Thanh Sơn

 


Tin mới:
Các tin khác: