• Trang chủ
  • |
  • Tư vấn pháp luật
  • |
  • Hộp thư công vụ
  • |
  • Liên hệ
  • Giới thiệu hội đồng PBGDPL
  • Thông tin tuyên truyền, PBGDPL
  • Nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật
  • Đề cương tuyên truyền pháp luật
  • Chính sách pháp luật
  • Nghiên cứu trao đổi
  • DS báo cáo viên pháp luật tỉnh
  • Tài liệu hòa giải cơ sở
  • Sự kiện - Bình luận
  • Tiếp cận pháp luật
  • Lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL

Tiểu phẩm tuyên truyền PL

  • Tôi đã sai rồi
  • Cái nương là của nhà mình
  • Bài học đắt giá
  • Dân kiểm tra
  • Như là tai họa

Liên kết bổ ích

  • Bài giảng trực tuyến
  • Tủ sách pháp luật
  • Tờ gấp, pano, áp phích
  • Cổng thông tin điện tử pháp điển
  • Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam

Liên kết web

Thống kê truy cập

Hiện có 56 khách Trực tuyến
HTML Hit Counter
Quy định việc sử dụng quốc tịch của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
 Thứ hai, 04 Tháng 5 2020 13:46 - 661 Lượt xem
PDF. In Email

Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam. Về nguyên tắc, công dân nước ta chỉ được mang một quốc tịch được quy định tại Điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Quy định này đã thể hiện xuyên suốt nguyên tắc một quốc tịch của nước ta, tuy nhiên để phù hợp với xu thế hội nhập, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 "mềm dẻo" hóa nguyên tắc một quốc tịch bằng các quy định có tính ngoại trừ đối với các trường hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch, như: trường hợp được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3, Điều 19), được trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5, Điều 23), trẻ em Việt Nam là con nuôi người nước ngoài (Điều 37), người Việt Nam định cư ở nước ngoài và đã nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2, Điều 13).
Nguyên tắc một quốc tịch "mềm dẻo" trên cùng với việc nhiều trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phía nước ngoài cấp hộ chiếu và công nhận quốc tịch (căn cứ vào pháp luật riêng của từng nước, có nước không bắt buộc công dân Việt Nam phải từ bỏ quốc tịch gốc) nên việc công dân Việt Nam có 2 quốc tịch và sử dụng đồng thời 2 hộ chiếu là không trái với quy định của pháp luật. Điều này đang dẫn đến thực tế là một bộ phận công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài mà hệ quả là việc sử dụng quốc tịch Việt Nam hay nước ngoài lại phụ thuộc chủ yếu vào ý chí lựa chọn của công dân. Ví dụ như: Pháp luật hộ tịch quy định "Công dân Việt Nam đã ly hôn, hủy việc kết hôn ở nước ngoài, sau đó về nước thường trú hoặc làm thủ tục đăng ký kết hôn mới tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì phải ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy kết hôn đã được giải quyết ở nước ngoài" do vậy, để không phải làm thủ tục ghi chú ly hôn, nhiều trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ sử dụng hộ chiếu, giấy tờ do cơ quan của nước ngoài cấp để làm thủ tục kết hôn mà không sử dụng giấy tờ tùy thân do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Trong khi đó, khi làm những thủ tục liên quan đến quyền sử dụng đất thì những người này lại sử dụng giấy tờ tùy thân do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Thực trạng này dẫn đến những khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền của nước ta trong xử lý những vụ việc liên quan đến người vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch nước ngoài trong thời gian qua. Do vậy, Điều 5 của Nghị định 16/2020/NĐ-CP ngày 03/2/2020 (có hiệu lực từ ngày 20/3/2020) thay thế Nghị định số 78/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch đã quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận quốc tịch Việt Nam đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Với quy định này sẽ khắc phục dần tình trạng tùy ý sử dụng quốc tịch, nhất là đối với những trường hợp vì vụ lợi cá nhân, gây khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong thời gian qua. Để triển khai thực hiện quy định này có hiệu quả, thiết nghĩ trong thời gian tới, Bộ Tư pháp cũng cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn./.

Mai Trần


Tin mới:
  • Một số quy định mới của Bộ Tư pháp về công tác hộ tịch
  • Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
  • Chính phủ ban hành quy định về vị trí việc làm và biên chế công chức
  • Nghị định của Chính phủ về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất
  • Hướng dẫn về thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công
Các tin khác:
  • Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID -19
  • Chính phủ quy định quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước
  • Chính phủ quy định thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử
  • Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia
  • Quy định cụ thể các trường hợp đặc biệt xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài
<< Trang trước   Trang kế tiếp >>

 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỈNH QUẢNG NAM

Trụ sở: 06 Nguyễn Chí Thanh - Thành phố Tam Kỳ - tỉnh Quảng Nam

Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Quảng Nam

Điện thoại: 0235.3852244 - Fax:0235.3852244 - Email: stp@quangnam.gov.vn

Email: stp@quangnam.gov.vn | Website: www.pbgdpl.quangnam.gov.vn

Ghi rõ nguồn "www.pbgdpl.quangnam.gov.vn" khi đưa lại thông tin từ website này