Quy định cụ thể các trường hợp đặc biệt xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài
 Thứ tư, 18 Tháng 3 2020 09:02 - 623 Lượt xem
In

"Nguyên tắc một quốc tịch" của nước ta được xác định tại Điều 4 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 như sau: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp luật này có quy định khác"; theo đó, tại khoản 3, Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam quy định: "Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 Điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép".

Cụ thể là những người thuộc một trong các trường hợp: Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam; người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; người có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, thế nào là "trường hợp đặc biệt" để được cơ quan có thẩm quyền xem xét chấp nhận vừa cho nhập quốc tịch Việt Nam lại vừa không phải thôi quốc tịch hiện tại thì lại chưa được hướng dẫn, cụ thể hóa trong Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam (Nghị định số 78/2009/NĐ-CP). Điều này đã dẫn đến một số cách hiểu và áp dụng khác nhau trong quá trình thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam, như: Về phía người dân thì họ hiểu quy định này theo nghĩa: nếu họ có vợ, chồng, cha, mẹ, con là công dân Việt Nam, thì họ thuộc "trường hợp đặc biệt" để được Chủ tịch nước cho giữ quốc tịch nước ngoài khi xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam; về phía cơ quan tham mưu tiếp nhận, giải quyết hồ sơ quốc tịch cũng gặp lúng túng trong việc hướng dẫn, xác định đương sự có thuộc trường hợp đặc biệt để không phải làm thủ tục thôi quốc tịch hiện tại của họ hay không?
Để khắc phục bất cập này, tại Điều 9 của Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch quy định (thay thế Nghị định số 78/2009/NĐ-CP) đã nêu rõ: "Người xin nhập quốc tịch Việt Nam thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây thì được coi là trường hợp đặc biệt quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam và được trình Chủ tịch nước xem xét việc cho nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước ngoài:
1. Có đủ điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam.
2. Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam và việc nhập quốc tịch đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài là có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
3. Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó.
4. Việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng.
5. Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam."
Có thể nói, với việc bổ sung quy định về các "trường hợp đặc biệt" xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài một cách rõ ràng, cụ thể của Nghị định số 16/2019/NĐ-CP đã tạo cách hiểu và áp dụng thống nhất, góp phần tháo gỡ một trong những vướng mắc, bất cập lớn nhất trong công tác giải quyết hồ sơ xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam trong thời gian qua./.

Mai Trần


Tin mới:
Các tin khác: