Ly hôn - tình trạng đáng báo động hiện nay
 Thứ ba, 25 Tháng 12 2012 09:58 - 9013 Lượt xem
In

Những năm gần đây, tình trạng ly hôn ở các địa phương trong tỉnh Quảng Nam mỗi năm một gia tăng và cũng là dấu hiệu đáng báo động trong quan hệ hôn nhân và gia đình hiện nay. Năm 2000, ngành Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý giải quyết 587 vụ án hôn nhân và gia đình, năm 2010 thụ lý giải quyết 1.281 vụ. Như vậy, chỉ sau 11 năm loại án trong lĩnh vực này đã tăng một cách đột biến, tăng 218% so với năm 2000. Xem xét số liệu ngẫu nhiên của bốn đơn vị TAND cấp huyện: Điện Bàn, Núi Thành, Hội An và Tam Kỳ đã thụ lý giải quyết trong năm 2010 là 342 vụ án HN&GĐ. Trong đó, số vụ do người vợ đứng đơn xin ly hôn 251 vụ, chiếm tỷ lệ 73,39%, đặc biệt độ tuổi 8X xin ly hôn 128 vụ chiếm tỷ lệ 37,43% và 04 trường hợp do người vợ xin ly hôn ở độ tuổi ngoài 60 tuổi. Và qua đó, chúng tôi rút ra được những nguyên nhân chủ yếu như sau:

Điều kiện kinh tế gia đình:  Các cặp vợ chồng sau khi lập gia đình phải tự lo cho mái ấm của mình, điều kiện kinh tế chưa đảm bảo cho cuộc sống riêng hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định cùng với đó là sinh con sớm và sinh nhiều con, nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Nỗi khốn khó đeo bám triền miên khiến vợ chồng sinh ra mâu thuẫn không thể tháo gỡ và kết cục là xin ly hôn. Đơn cử, bà Nguyễn Thị H. ở huyện Thăng Bình và ông Trần Đăng Â. ở thành phố Tam Kỳ tự nguyện kết hôn với nhau tháng 4 năm 2007. Chung sống được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn bởi bà H. vừa sinh con nhỏ, không có công ăn việc làm, đời sống kinh tế khó khăn, ông Â. buộc bà H. phải ăn riêng và nuôi con, còn ông Â. thì ăn chung với cha mẹ mình. Hơn nữa, ông Â. thường xuyên đánh đập làm cho bà H. không thể tự lập để nuôi con nhỏ mới sinh, đành phải bồng con về nương tựa vào cha mẹ đẻ. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà H. buộc phải xin ly hôn.

Ngược lại, nhiều gia đình vợ chồng có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khá giả có của ăn của để, thuê người giúp việc nhưng tình cảm vợ chồng đần dần phai nhạt rồi xảy ra “chiến tranh lạnh”, bởi một lẽ: Khi người chồng có địa vị và chỗ đứng trong xã hội, hoặc có điều kiện kiếm ra tiền, hằng tháng họ đem tiền về giao cho vợ coi như xong nghĩa vụ và tự cho mình “cái quyền” làm gì tùy thích theo thú vui của riêng mình, thiếu quan tâm đến gia đình vợ con. Người vợ ở nhà thiếu thốn tình cảm vợ chồng sinh ra nghi kỵ ghen tuông và vợ chồng phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly hôn. Như vụ ông Nguyễn Ngọc C. và bà Huỳnh Thị T. ở huyện T. tự nguyện kết hôn năm 1994. Thời kỳ đầu hôn nhân, vợ chồng sống rất hạnh phúc và có một con chung, đến khi điều kiện kinh tế gia đình khá giả với khối tài sản trị giá bạc tỷ, thì ông C. đam mê nhậu nhẹt và lén lút ngoại tình, rồi đành đoạn ly hôn với người vợ thật thà chất phác.

Bạo lực gia đình: Trên thực tế nhiều gia đình Việt Nam hiện nay, người đàn ông làm chủ gia đình và trong chừng mực nào đó họ thể hiện tính gia trưởng, định đoạt mọi việc, người vợ chỉ là người giúp việc, không có quyền hành gì dẫn đến việc người vợ bức xúc, lâu dần trở thành mâu thuẫn vợ chồng. Có không ít trường hợp vợ chồng sinh con một bề, làm cho người chồng chán nản bỏ bê công việc gia đình, đi theo con đường bài bạc rồi dần dần của cải trong gia đình “đội nón ra đi”; hoặc rủ bạn bè đi nhậu hết ngày này sang ngày khác, khi tàn cuộc về nhà tìm trăm ngàn lý do để hành hạ đánh đập vợ con gây thương tích như: Trần Văn T. (SN 1980 ở xã T, huyện N) chỉ vì ghen tuông mù quáng, nghi kỵ cháu Tuấn không phải con mình, nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn gay gắt. Tối ngày 21/6/2009, T. đã dùng cây gỗ đánh, sau đó dùng rựa chặt chân vợ là Trần Thị C. (SN 1986) gây thương tích 18%.

Có nhiều trường hợp vì lý do nào đó mà người chồng nhẫn tâm giết vợ một cách không thương tiếc như: Năm 2008, Huỳnh Thái A. (SN 1981 ở xã T, huyện P) kết hôn với Võ Thị Kim Y. người cùng địa phương. Vợ chồng mới cưới nhưng A. thấy bạn trai của Y. hay đến nhà chơi và chuyện trò vui vẻ với Y., do đó A. nghi ngờ vợ ngoại tình và phát sinh mâu thuẫn. Y. bỏ về nhà mẹ ruột của mình ở. Đầu năm 2009, A. gây tai nạn giao thông làm chết hai người, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 6 năm tù nên A. nghĩ mình đi tù sẽ mất vợ, do đó phải giết vợ bằng nguồn điện thắp sáng, nếu Y. chưa chết thì dùng thuốc diệt chuột cho Y. uống để chết và A. cũng uống thuốc diệt chuột tự tử. Nghĩ vậy, A. chuẩn bị sẵn dụng cụ và nguồn điện 220V của nhà bà Trần Thị H. gần nhà mẹ của Y. Khoảng 01 giờ sáng ngày 11/5/2009, A. đột nhập vào nhà mẹ vợ dùng hai đầu dây điện kẹp vào cổ Y. để điện giật cho chết, nhưng do Y. nằm trên giường gỗ nên thoát chết. TAND tỉnh đã xử Huỳnh Thái A. 9 năm tù về tội giết người.

Ngược lại, trong quan hệ vợ chồng không phải mọi việc đều do người chồng vũ phu gây ra mà nhiều gia đình, người vợ cũng có những hành động điên rồ chém giết chồng tàn bạo như: Năm 1988, bà Hà Thị H. (SN 1969 ở xã Q, huyện Q) kết hôn với ông Nguyễn Duy Đ. (SN 1965) người cùng địa phương. Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng sinh được hai người con, đứa lớn sinh năm 1990, đứa nhỏ sinh năm 1993 và cuộc sống gia đình ổn định. Năm 1998, bà H. ngoại tình với Phan Văn T. (SN 1964) người cùng thôn. Ông Đ. biết được và nhờ cha vợ răn đe, khuyên nhủ. Từ đó H. chấm dứt việc ngoại tình và vợ chồng tiếp tục chung sống chí thú làm ăn rồi sinh thêm một đứa con nữa. Chuyện tưởng chừng đã trôi qua và tình cảm vợ chồng được hàn gắn để xây dựng gia đình hạnh phúc. Thế nhưng, sáng ngày 25/7/2007, ông Đ. đem rựa đi làm rẫy, khoảng 9 giờ bà H. nấu mỳ tôm đem lên rẫy cho chồng ăn. Hai vợ chồng có lời qua tiếng lại một lúc và ông Đ. nói cạnh khoé hàm ý nhắc lại chuyện quá khứ của bà H. Cơn bực tức nổi lên và sẵn cây rựa phát rẫy của ông Đ., bà H. chộp lấy bổ thẳng vào đầu làm ông Đ. chết ngay tại chỗ. Giết chồng xong, bà H. ra về coi như không có chuyện gì xảy ra… TAND tỉnh đã xử phạt Hà Thị H. 12 năm tù, để có thời gian cho bà H ngẫm nghĩ lại quá khứ tội lỗi của mình.  

Ngoại tình: Ngày xưa, người phụ nữ luôn coi trọng danh dự, nhân phẩm của mình bằng sự thủy chung son sắc, họ coi việc vụng trộm tình ái là hành vi xấu xa, phản bội và thiếu đạo đức. Nhưng ngày nay, quan niệm “ông ăn chả, bà ăn nem” trở thành mốt. Thực tế đã có không ít gia đình vợ chồng thích tìm “của lạ”. Nhất là trường hợp người chồng đi làm ăn xa nhà lâu ngày khi gặp đối tượng cùng cảnh ngộ dễ siêu lòng đi theo tiếng gọi của ái tình. Trường hợp của vợ chồng bà Võ Thị L. và ông Vũ Hồng P. cùng ở huyện N là một thực tế. Họ tự nguyện kết hôn năm 1977, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng đã có năm người con chung nhưng ông P. luôn đam mê bài bạc, ngoại tình với người phụ nữ khác rồi bỏ nhà ra đi hơn mười năm. Khi trở về, ông P. vẫn chứng nào tật ấy, khiến bà L. không thể tha thứ được nữa và xin ly hôn để thoát khỏi cái cảnh chồng chung vợ chạ.

Trường hợp khác, ông Đặng Ngọc B. và bà Nguyễn Thị H. cùng sinh năm 1970 ở xã Đ, huyện Đ. Hai người là bạn học phổ thông và sau khi tốt nghiệp ra trường, H. vào thành phố Hồ Chí Minh tìm kế sinh nhai, còn B. là giáo viên ở quê nhà. Năm 2006, ông B. và bà H. gặp lại nhau, ông B. “giả nai” đem lòng yêu thương bà H. và sau một thời gian bà H. có thai rồi sinh được đứa con trai kháu khỉnh đặt tên là Nguyễn Châu N. M. Thế nhưng, ông B. trốn tránh trách nhiệm, không nhận cháu N. M. là con của mình, khiến bà H. thất vọng và đi giám định AND cho con với kết luận: “Ông Đặng Ngọc B. là cha đẻ của cháu Nguyễn Châu N. M.”. Căn cứ kết luận giám định AND Tòa án nhân dân huyện Đ. xử: Xác định ông Đặng Ngọc B. là cha đẻ của cháu Nguyễn Châu N. M. và buộc ông B. phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 400.000 đồng cho đến khi cháu N. M. đủ 18 tuổi và có khả năng tự lập được. Ngược lại, nhiều người vợ sống trong điều kiện kinh tế dư thừa, sinh ra “tật xấu”. Một mặt họ đi tìm thú vui cho riêng mình, mặt khác để trả đũa cho “cái tội” ông “ăn chả” và kết cục mỗi người một ngả như: Vợ chồng ông Phan Quang N. (SN 1968) và bà Phạm Thị Bích M. (SN 1972) ở xã Đ, huyện Đ. kết hôn năm 1993. Vợ chồng chung sống hạnh phúc và đã có hai con chung, nhưng đến năm 2000 thì bà M. lén lút ngoại tình. Ông N. đã nhiều lần ngăn cản và nhờ gia đình hai bên khuyên bảo, nhưng bà M. vẫn không thay đổi và cuối năm 2008, bà M. bỏ nhà, bỏ chồng con đi theo người tình khiến ông N. phải đành lòng xin ly hôn với người vợ vong ơn phụ nghĩa vợ chồng.      

Lấy chồng ngoại: Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, những năm gần đây một số người nước ngoài đến Việt Nam đầu tư sản xuất kinh doanh, du lịch… Họ tiêu tiền như nước làm cho các cô gái Việt Nam loá mắt và có tư tưởng sính ngoại, muốn đổi đời mà không vất vả lao động nên đánh liều chạy theo đồng tiền, bất chấp tuổi tác chênh lệch, phong tục tập quán, quan niệm sống.... Họ cố bám và chung sống với nhau như vợ chồng, rồi đăng ký kết hôn, xuất cảnh theo chồng. Sau một thời gian sinh sống nơi đất khách quê người buồn tẻ và luôn bị hành hạ đánh đập, bởi không hoà nhập được với phong tục tập quán, bất đồng ngôn ngữ, gia trưởng và mâu thuẫn vợ chồng luôn xảy. Nhiều người đành phải ly hôn ôm con về nước sinh sống. Đó là bà Đinh Thị T. (SN 1984) ở thành phố H. năm 2003 kết hôn với ông Stephen Shaun Benson Lyons (SN 1970). Sau khi kết hôn vợ chồng cùng sang Bắc Ailen sinh sống và có một con chung. Cuối năm 2008, vợ chồng về lại Việt Nam lập nghiệp, làm ăn sinh sống. Thế nhưng, đầu năm 2009, ông S. S. B. Lyons nảy sinh quan hệ với người đàn bà khác và luôn rượu chè, đánh đập vợ. Bà T. phải nhờ đến Công an phường giải quyết, sau đó ông S. S. B. Lyons bỏ nhà đi theo người tình. Đến nước này bà T. mới thấm thía với tư tưởng sính ngoại và xin ly hôn.

Việt kiều ở nước ngoài về thăm quê hương, gia đình và thông qua đó họ kết hôn với phụ nữ trong nước. Vợ chồng chung sống với nhau một thời gian thì người chồng về lại nước ngoài. Những ngày đầu mới xa cách họ còn liên lạc qua điện thoại đôi lần và hứa hẹn sẽ tạo mọi điều kiện đưa vợ xuất cảnh ra nước ngoài, nhưng thời gian mãi trôi không một lời hồi âm. Hoặc sau khi cưới, người chồng về nước ngoài, còn người vợ ở lại trong nước sinh ra ngoại tình. Năm 2002, ông Kevin N.-Việt kiều về nước và quen biết rồi đem lòng yêu thương bà Nguyễn T.T.M. ở huyện Đ. Trong thời gian này, ông Kevin N. thường hay cho tiền để bà T.M. sinh hoạt, mua sắm tài sản… Đến năm 2006, ông Kevin N. đăng ký kết hôn với bà T.M., hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc một thời gian, thì ông Kevin N. về lại nước ngoài, bà T.M. ở Việt Nam ngoại tình với người đàn ông khác và sinh được người con gái. Khi sự việc vỡ lở, ông Kevin N. đưa con đi giám định AND, thì kết quả là đứa con không cùng huyết thống với ông Kevin N. Do đó, ông đành phải ngậm ngùi đắng cay và chia tai với bà Nguyễn T.T.M.     

Cưng chiều con cái: Đối với những trường hợp ở khu vực đô thị hoặc cán bộ, công chức có điều kiện kinh tế khá và ít con nên mọi công việc gia đình đều do cha mẹ quán xuyến, không tập cho con làm quen với công việc gia đình. Đến khi trưởng thành xây dựng gia đình phải đối mặt với bao khó khăn, từ việc xử sự với mọi người trong gia đình, đến công việc hằng ngày phải tự thân vận động, không còn được cưng chiều như khi còn ở với cha mẹ. Nhất là các cặp vợ chồng ở lứa tuổi 8-9X, họ chưa quen với cuộc sống tự lập, nên không chịu được khó khăn cùng với thói quan thường xuyên chơi bời. Hệ quả của việc cưng chiều con cái là những cuộc chia tay của các cặp vợ chồng trẻ như: Năm 2008, bà Nguyễn Thị Tuyết T. (SN 1991) xây dựng gia đình với ông Nguyễn Q. (SN 1974) ở xã Đ, huyện Đ. Tuyết T. lấy chồng ở cái tuổi 17 (tảo hôn) và sinh con sớm, do đó Tuyết T. chưa hiểu biết nhiều về trách nhiệm làm mẹ, làm dâu cộng với điều kiện kinh tế khó khăn, tuổi tác vợ chồng quá chênh lệch nên quan điểm sống của vợ chồng không phù hợp, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn và Tuyết T. đành phải xin ly hôn với người chồng hơn mình 17 tuổi. Ngoài ra, còn có nhiều cặp vợ chồng tuổi đã xế chiều nhưng họ vẫn còn xảy ra cảnh “cơm không lành, canh chẳng ngọt”, bởi lý do tế nhị. Chẳng hạn, vợ chồng ông Nguyễn Trung L. (SN 1933), bà Phạm Thị T. (SN 1943) ở thị trấn V, huyện D, tỉnh Q. Đã lên ông, lên bà nhưng đầu năm 2009 bà T. đành phải ngậm ngùi chia tay với  ông L. để được tự do cho cuộc sống riêng của mình.

Để hạn chế tình trạng ly hôn như hiện nay, thiết nghĩ các cấp chính quyền, các đoàn thể cần có biện pháp giáo dục, nhằm giúp cho mọi người nhận thức tốt hơn về hôn nhân, truyền thống văn hoá trong quan hệ gia đình của người Việt Nam. Quan trọng hơn, các bạn thanh niên trước và sau khi xây dựng gia đình cần nhận thức hôn nhân và gia đình là vấn đề hệ trọng, gắn liền với sự phát triển nhân cách của con cái không nên vì lý do nào đó mà đánh mất hạnh phúc gia đình, khiến trẻ em phải lâm vào cảnh thiếu tình thương của cha mẹ, đưa đẩy trẻ vào con đường hư hỏng, Nhà nước phải gánh nặng nhiều chính sách xã hội không đáng có./.

Thái Nguyên Toàn


Tin mới:
Các tin khác: