Điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có liên quan đến hoạt động hòa giải ở cơ sở
 Thứ hai, 18 Tháng 1 2016 07:50 - 3114 Lượt xem
In

Nhằm phát huy vai trò, ý nghĩa của hoạt động hòa giải ở cơ sở và thể chế hóa hoạt động này theo tinh thần cải cách tư pháp nhằm “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài"; ngày 20/6/2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hòa giải ở cơ sở. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Về giá trị pháp lý của văn bản hòa giải thành, theo Luật hòa giải ở cơ sở, văn bản hòa giải thành chỉ là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận của các bên, với sự “ràng buộc” mang tính tự nguyện trên cơ sở bảo đảm thực hiện bằng danh dự và uy tín của đôi bên trong việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp. Cho nên nếu một trong các bên, sau khi đã thỏa thuận mà có sự thay đổi ý chí về sự thỏa thuận đó thì có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Liên quan đến vấn đề trên, Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) mới, được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, đã có quy định về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Cụ thể, Điều 416 Bộ luật TTDS quy định: “Kết quả hòa giải vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải.

Theo đó, với kết quả hòa giải thành theo Luật hòa giải ở cơ sở, các bên tham gia hòa giải có quyền được yêu cầu Tòa án thụ lý và ra quyết định công nhận việc thỏa thuận đó. Đây là quy định mới, tạo cơ sở pháp lý cho các bên tham gia hòa giải ở cơ sở đã đạt được thỏa thuận và mong muốn sự thỏa thuận đó được bảo đảm thực hiện trên thực tế bằng một sự ràng buộc chắc chắn, đó là quyết định công nhận của Tòa án. Có thể nói, quy định mới này của Bộ luật TTDS đã góp phần nâng cao ý nghĩa của hoạt động hòa giải ở cơ sở, đặc biệt là khi vụ việc đã được hoàn giải thành; đồng thời cũng là hướng làm giảm thiểu số lượng vụ việc tranh chấp phải giải quyết tại Tòa án.

Dưới đây là một số quy định cụ thể trong Bộ luật TTDS về việc yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải thành trong hoạt động hòa giải ở cơ sở:

Một là, về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành: Các bên tham gia hòa giải phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và phải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận trong vụ việc hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý. Một hoặc cả hai bên có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án công nhận. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.

Hai là, đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành: Người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành phải gửi đơn đến Tòa án trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày các bên đạt được thỏa thuận hòa giải thành. Đơn yêu cầu phải có các nội dung chủ yếu sau đây: Các nội dung quy định tại các điểm a, b, c, đ, e và g khoản 2 Điều 362 của Bộ luật TTDS; tên, địa chỉ của cá nhân, tổ chức đã tiến hành hòa giải; nội dung, thỏa thuận hòa giải thành yêu cầu Tòa án công nhận. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi văn bản về kết quả hòa giải thành theo quy định của Luật hoà giải ở cơ sở.

Ba, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án: Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành được thực hiện theo quy định tại các điều 363, 364 và 365 của Bộ luật TTDS. Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu; hết thời hạn này, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Thời hạn mở phiên họp xét đơn yêu cầu là 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định mở phiên họp.

Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Thẩm phán được phân công xét đơn có các quyền sau đây: Yêu cầu bên tham gia hòa giải, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến về yêu cầu của người có đơn; làm rõ nội dung yêu cầu hoặc bổ sung tài liệu, nếu xét thấy cần thiết; yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền tiến hành hòa giải cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc xét đơn yêu cầu của đương sự, nếu xét thấy cần thiết.

Việc xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành do một Thẩm phán giải quyết. Thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành đối với trường hợp không có đủ các điều kiện quy định tại Điều 417 của Bộ luật TTDS. Lưu ý: Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ở cơ sở.

Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩmđược thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự./.

Kỳ Sanh – Minh Tâm


Tin mới:
Các tin khác: