Quy định mới về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ
 Thứ ba, 18 Tháng 2 2014 09:41 - 1428 Lượt xem
In

Ngày 23/01/2014, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC về hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ.

Đối tượng áp dụng của Thông tư liên tịch này là cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án, cơ quan quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường, cơ quan có liên quan trong việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả, người có trách nhiệm hoàn trả và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Theo Thông tư, ngay sau khi thực hiện xong việc chi trả tiền bồi thường, Thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải ra Quyết định thành lập Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả để xác định trách nhiệm hoàn trả, mức hoàn trả đối với người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại theo quy định tại Khoản 1 Điều 58 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP.

Trường hợp cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại không có cấp quản lý trực tiếp thì cơ quan đó có trách nhiệm cử đại diện lãnh đạo tham gia Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả.

Mức hoàn trả sẽ căn cứ vào lỗi của người thi hành công vụ, cụ thể là: Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả xác định lỗi của người thi hành công vụ trên cơ sở nội dung văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định tại Điều 26 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Trong trường hợp các văn bản trên chưa xác định lỗi của người thi hành công vụ thì Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và các tình tiết của vụ việc để xác định lỗi của người có trách nhiệm hoàn trả trên cơ sở áp dụng quy định của pháp luật dân sự và quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 Thông tư này.

Mức hoàn trả được xác định theo nguyên tắc: Việc xác định mức hoàn trả của người thi hành công vụ được thực hiện theo quy định tại Điều 16 và Điều 18 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP; mức hoàn trả của người thi hành công vụ được xác định tối đa không vượt quá số tiền thực tế mà Nhà nước đã chi trả cho người bị thiệt hại.

Xác định mức hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại:

- Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là dưới 30 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối đa là không quá 01 tháng lương (của người phải hoàn trả tại thời điểm xem xét);

- Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả từ 30-100 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là từ 01-02 tháng lương;

- Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là trên 100 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định là từ 01-03 tháng lương.

Xác định mức hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

- Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là dưới 100 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định là từ 03-12 tháng lương;

- Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là từ 100-500 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định là từ 12-24 tháng lương;

- Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là trên 500 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định là từ 24-36 tháng lương.

Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 08/3/2014./.

Minh Tâm

 


Tin mới:
Các tin khác: