• Trang chủ
  • |
  • Tư vấn pháp luật
  • |
  • Hộp thư công vụ
  • |
  • Liên hệ
  • Giới thiệu hội đồng PBGDPL
  • Thông tin tuyên truyền, PBGDPL
  • Nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật
  • Đề cương tuyên truyền pháp luật
  • Chính sách pháp luật
  • Nghiên cứu trao đổi
  • DS báo cáo viên pháp luật tỉnh
  • Tài liệu hòa giải cơ sở
  • Sự kiện - Bình luận
  • Tiếp cận pháp luật
  • Lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL

Tiểu phẩm tuyên truyền PL

  • Tôi đã sai rồi
  • Cái nương là của nhà mình
  • Bài học đắt giá
  • Dân kiểm tra
  • Như là tai họa

Liên kết bổ ích

  • Bài giảng trực tuyến
  • Tủ sách pháp luật
  • Tờ gấp, pano, áp phích
  • Cổng thông tin điện tử pháp điển
  • Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam

Liên kết web

Thống kê truy cập

Hiện có 40 khách Trực tuyến
HTML Hit Counter
Thực tiễn vướng mắc khi thực hiện tương trợ tư pháp trong hoạt động thi hành án dân sự và những kiến nghị
 Thứ tư, 09 Tháng 5 2012 09:51 - 2870 Lượt xem
PDF. In Email

Luật Thi hành án dân sự (THADS) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009, sau gần 3 năm thực hiện đã góp phần tháo gỡ được nhiều vướng mắc trong hoạt động THADS, tạo điều kiện cho các cơ quan THADS từng bước giảm tỉ lệ án tồn đọng từ nhiều năm trước chuyển sang chưa giải quyết được, trong đó có một số việc mà người phải thi hành án là người nước ngoài, hoặc có liên quan đến người nước ngoài.

Những quy định của pháp luật về THADS trước năm 2008 hầu như chưa có qui định cụ thể nào để áp dụng cho việc thi hành án đối với người nước ngoài, do đó việc giải quyết, xử lý những vụ việc này các cơ quan THADS gặp không ít khó khăn. Luật THADS hiện nay cũng chỉ qui định rất chung về vấn đề tương trợ tư pháp trong THADS. Cụ thể, Điều 181 Luật THADS quy định:

1. Việc yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án, việc tiếp nhận và xử lý uỷ thác tư pháp về thi hành án của nước ngoài trong quá trình thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.

2. Cơ quan Thi hành án dân sự có yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự trong thi hành án phải lập hồ sơ uỷ thác tư pháp theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.

Trong khi đó tại Điều 5 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 quy định về ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp thì:

1. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài đã có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp là ngôn ngữ được quy định trong điều ước quốc tế đó.

2. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hồ sơ phải kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận.

3. Cơ quan lập hồ sơ yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp phải dịch hồ sơ ra ngôn ngữ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Với quy định như vậy thì cơ quan lập hồ sơ yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp phải dịch ngôn ngữ Việt Nam ra ngôn ngữ nước ngoài, vậy việc cơ quan THADS sự phải dịch các văn bản có liên quan đến tài liệu ủy thác tư pháp chính là những vướng mắc đối với các cơ quan THADS trong quá trình xử lý vụ việc. Tài liệu phải dịch thuật đó thuê tổ chức, cá nhân nào dịch ra ngôn ngữ nước ngoài, tính pháp lý của văn bản dịch ra sao; trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp về THADS đối với người nước ngoài cũng chưa được quy định cụ thể trong Luật THADS, Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, cũng như Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Dưới đây là môt số tình huống vướng mắc cụ thể:

- Trường hợp người phải thi hành án là người nước ngoài, địa chỉ cư trú đã được ghi cụ thể trong bản án, họ đã chấp hành xong hình phạt tù và đã hồi hương về nước. Tuy nhiên việc xác minh về nhân thân, tài sản của người phải thi hành án ở nước ngoài hiện nay cơ quan THADS không thể thực hiện được, do đó không có cơ sở để hoãn thi hành án theo Điều 48 Luật THADS và cũng không có căn cứ để đình chỉ thi hành án theo Điều 50 của Luật này.

- Những bản án, quyết định của Tòa án mà đương sự là người nước ngoài, mà quốc gia nơi người đó mang quốc tịch chưa có hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, khiến cho việc ủy thác tư pháp không thể thực hiện được. Đương sự là người phải thi hành khoản nộp ngân sách nhà nước, chưa thi hành xong phần nghĩa vụ của mình, nhưng hiện tại đã trở về nước và không để lại tài sản gì ở Việt Nam, cơ quan THADS đã thực hiện mọi biện pháp, nhưng việc thi hành án vẫn không có kết quả hoặc có xác ninh được địa chỉ, nhưng không thể tiến hành các thủ tục ủy thác tư pháp được do Việt Nam chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với nước mà người phải thi hành án là công dân. Nếu thực hiện việc yêu cầu nước sở tại công nhận và cho thi hành bản án tại nước đó thì hiện nay chưa quy định cơ quan nào có trách nhiệm thực hiện việc này (vì đây là khoản thu cho ngân sách nhà nước).

- Ngoài ra, còn có một số tình huống khác, như: Trường hợp người nước ngoài phạm tội bị bắt, khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tuyên vô tội và họ đã hồi hương, nhưng tang vật vụ án mà họ được nhận lại vẫn đang bảo quản tại kho cơ quan Điều tra hoặc kho cơ quan THADS sẽ khó được xử lý vì nhiều lý do. Như vậy, những vụ việc này chắc chắn tồn đọng lâu dài tại cơ quan THADS, nhưng chưa có hướng giải quyết.

Từ thực tiễn THADS có yếu tố nước ngoài, xin được nêu ra một số kiến nghị sau:

- Đối với những trường hợp người nước ngoài phải thi hành khoản nộp ngân sách nhà nước, chưa thi hành xong phần nghĩa vụ của mình, nhưng hiện tại đã trở về nước và không để lại tài sản gì ở Việt Nam, cơ quan THADS đã thực hiện mọi biện pháp, nhưng việc thi hành án vẫn không có kết quả do không xác minh được địa chỉ, thu nhập của người phải thi hành án (hoặc có xác minh được địa chỉ và xác định người đó có điều kiện thi hành án, nhưng cơ quan THADS không thể xử lý tài sản của người phải thi hành án để thi hành do Việt Nam chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề này), đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 61 Luật THADS về miễn thi hành án đối với người phải thi hành án là người nước ngoài; hoặc sửa đổi, bổ sung Điều 50 Luật này về đình chỉ thi hành án theo hướng bổ sung căn cứ cho phép cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án sau khi xác minh biết được đương sự đã hồi hương về nước, hoặc không xác minh được tài sản của đương sự tại Việt Nam.

- Đối với trường hợp người nước ngoài được thi hành án (nhận lại tài sản) là hiện vật không có giá trị kinh tế như các loại giấy tờ; hiện vật có giá trị nhỏ; nhận lại tiền..., nhưng đương sự đã trở về nước mà cơ quan THADS không xác định được nơi cư trú của người đó hoặc xác định được nhưng việc chuyển tiền hoặc tài sản cho họ qua đường bưu điện không thể thực hiện được, thì đề nghị quy định cho cơ quan THADS làm việc với cơ quan đại diện ngoại giao của nước mà người đó là công dân để bàn giao cho cơ quan nước ngoài này. Nếu cơ quan nước ngoài này không đồng ý tiếp nhận thì cơ quan THADS tiêu tiêu hoặc sung quỹ nhà nước.

Trên đây là một vài suy nghĩ về những vướng mắc khi thực hiện tương trợ tư pháp trong công tác thi hành án dân sự, rất mong sự chia xẻ của các bạn đọc.

                                                                                Phạm Văn Thành

                                                                                                (Cục THADS tỉnh Quảng Nam)

 

Tin mới:
  • Hoạt động của Thanh tra tư pháp địa phương: Vì sao mờ nhạt?
  • Nhìn lại 01 năm thực hiện chỉ thị số 03-CT/TW ngày 15/4/2011 của Bộ chính trị
  • Bất cập khi áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành quyết định của Tổ thẩm phán theo Luật phá sản
  • Bàn về xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
  • Chuyện này không nhỏ
Các tin khác:
  • Vài so sánh giữa công chức và viên chức
  • Những bất cập từ quy định của pháp luật trong thực hiện công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
  • Chuyện cần trao đổi về cái “Phiếu chuyển” và “Sổ theo dõi sinh hoạt gia đình”
  • Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân trao cho các cơ quan nhà nước tổ chức và thực hiện trên thực tế
  • Xây dựng Bộ máy UBND cấp huyện và cấp xã như thế nào khi không còn tổ chức Hội đồng nhân dân
<< Trang trước   Trang kế tiếp >>

 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỈNH QUẢNG NAM

Trụ sở: 06 Nguyễn Chí Thanh - Thành phố Tam Kỳ - tỉnh Quảng Nam

Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Quảng Nam

Điện thoại: 0235.3852244 - Fax:0235.3852244 - Email: stp@quangnam.gov.vn

Email: stp@quangnam.gov.vn | Website: www.pbgdpl.quangnam.gov.vn

Ghi rõ nguồn "www.pbgdpl.quangnam.gov.vn" khi đưa lại thông tin từ website này