Một số ý kiến về công tác tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở cấp tỉnh |
Thứ năm, 15 Tháng 12 2011 07:57 - 3406 Lượt xem |
|
|
Kể từ khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 (sau đây gọi tắt Luật năm 2004) có hiệu lực thi hành, công tác soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của HĐND và UBND các cấp ở Quảng Nam đã ngày càng có chất lượng hơn, cơ bản đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành theo Luật. Tuy nhiên, trong công tác tham mưu cho UBND tỉnh, một số cơ quan, đơn vị chưa tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật năm 2004, dẫn đến việc soạn thảo VBQPPL đạt được kết quả chưa cao, chưa đảm bảo tính dân chủ trong quá trình xây dựng văn bản…từ đó dẫn đến việc ban hành một số VBQPPL có thiếu tính khả thi. Để khắc phục các hạn chế, vướng mắt như đã nêu ở trên, đồng thời nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác soạn thảo, ban hành VBQPPL của UBND cấp tỉnh trong thời gian tới, bài viết này xin đưa ra một số vấn đề cần trao đổi, có liên quan đến trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành VBQPPL của UBND cấp tỉnh. Theo quy định của Luật năm 2004 thì trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành VBQPPL của UBND cấp tỉnh gồm các bước chủ yếu sau: 1) Cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định, chỉ thị của UBND tỉnh (dự thảo); 2) Tổ chức lấy ý kiến tham gia dự thảo; 3) Gửi dự thảo cùng với tờ trình ban hành văn bản đến Sở Tư pháp thẩm định; 4) Trình UBND cấp tỉnh xem xét thông qua; 5) Chủ tịch UBND tỉnh thay mặt UBND tỉnh ký ban hành. Đây là 05 bước chính phải có và cần được tuân thủ về mặt thứ tự trong hoạt động soạn thảo, ban hành VBQPPL của UBND cấp tỉnh. VBQPPL được ban hành theo Chương trình do UBND phê duyệt từ đầu năm. Theo đó các cơ quan chuyên môn được phân công có trách nhiệm xây dựng dự thảo và tờ trình dự thảo VBQPPL. Thực tế, cơ quan chuyên môn được phân công thường là cơ quan phụ trách về ngành, lĩnh vực mà quyết định, chỉ thị được ban hành sẽ điều chình về lĩnh vực đó. Việc tổ chức lấy ý kiến tham gia góp ý vào dự thảo VBQPPL, thường có có phạm vi chính là các cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản sẽ được ban hành. Do đó, các cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được dự thảo văn bản; trường hợp lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản sau này thì cơ quan lấy ý kiến phải xác định những vấn đề cụ thể, địa chỉ nhận ý kiến và dành ít nhất bảy ngày, để các đối tượng được lấy ý kiến có thời gian nghiên cứu góp ý vào dự thảo văn bản. Điều 23 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật năm 2004, quy định các hình thức lấy ý kiến như: lấy ý kiến trực tiếp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan thông qua các cuộc họp, hội nghị, hội thảo; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin điện tử của địa phương; thông qua khảo sát, phiếu thăm dò tới các đối tượng; thông qua các hình thức khác... Việc quy định đa dạng về hình thức lấy ý kiến là nhằm phát huy dân chủ rộng rãi, giúp cơ quan soạn thảo bảo đảm tính hoàn thiện cao của dự thảo VBQPPL. Sau khi nhận được ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng sẽ chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, cơ quan soạn thảo phải tổng hợp và nghiên cứu tiếp thu, hiệu chỉnh dự thảo văn bản. Đối với những vấn đề không tiếp thu và những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau thì phải phản hồi cho cơ quan, tổ chức hữu quan và người góp ý bằng các biện pháp và phương tiện thích hợp, đồng thời phải đưa vào nội dung tờ trình để trình và gửi cùng với dự thảo văn bản đến Sở Tư pháp để thẩm định. Điều 38 Luật năm 2004, quy định chậm nhất là 15 ngày, trước ngày UBND họp, cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị đến Sở Tư pháp để thẩm định trước khi trình UBND cấp tỉnh ban hành. Phạm vi thẩm định bao gồm: Sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật; ngôn ngữ và kỹ thuật soạn thảo văn bản. Chính việc quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục cũng như hồ sơ yêu cầu thẩm định đã nâng cao tính khả thi của văn bản sau khi được ban hành. Sau khi nhận được báo cáo thẩm định, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu tiếp thu ý kiến thẩm định, hiệu chỉnh lại dự thảo và tờ trình chính thức để trình UBND. Điều 39 Luật năm 2004, còn quy định chậm nhất là 5 ngày, trước ngày UBND cấp tỉnh họp, cơ quan soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị đến UBND tỉnh. Hồ sơ dự thảo gồm: Tờ trình và dự thảo quyết định, chỉ thị; báo cáo thẩm định của Sở Tư pháp; bản tổng hợp ý kiến tham gia dự thảo quyết định, chỉ thị và các tài liệu có liên quan. Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo việc chuẩn bị hồ sơ để chuyển đến các thành viên UBND trước kỳ họp ba ngày, để nghiên cứu trước. Trình tự xem xét thông qua dự thảo quyết định, chị thị được quy định cụ thể tại Điều 40 Luật năm 2004 và dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên UBND biểu quyết tán thành và được Chủ tịch UBND thay mặt UBND ký ban hành. Mặc dầu Luật năm 2004 đã quy định cụ thể như đã nêu trên, nhưng cho đến nay tại Quảng Nam vẫn còn có nhiều trường hợp: VBQPPL do UBND tỉnh ban hành nhưng không có ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp hoặc hồ sơ thẩm định gửi Sở Tư pháp chưa đảm bảo theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật năm 2004. Đơn cử, như thiếu công văn yêu cầu thẩm định dự thảo; Tờ trình và dự thảo quyết định, chỉ thị chưa đảm bảo yêu cầu về nội dung; bản tổng hợp ý kiến góp ý vào dự thảo quyết định, chỉ thị còn sơ sài; thiếu tài liệu có liên quan đến dự thảo quyết định, chỉ thị. Chúng tôi, nêu ra một số nội dung cần trao đổi trên đây về nghiệp vụ trong công tác soạn thảo, ban hành VBQPPL của UBND cấp tỉnh, để các cơ quan, đơn vị cùng chia xẻ và góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác này trong thời gian đến./. Nguyễn Đình Trọng (Phòng Xây dựng và Theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật)
Tin mới:
Các tin khác:
|