• Trang chủ
  • |
  • Tư vấn pháp luật
  • |
  • Hộp thư công vụ
  • |
  • Liên hệ
  • Giới thiệu hội đồng PBGDPL
  • Thông tin tuyên truyền, PBGDPL
  • Nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật
  • Đề cương tuyên truyền pháp luật
  • Chính sách pháp luật
  • Nghiên cứu trao đổi
  • DS báo cáo viên pháp luật tỉnh
  • Tài liệu hòa giải cơ sở
  • Sự kiện - Bình luận
  • Tiếp cận pháp luật
  • Lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL

Tiểu phẩm tuyên truyền PL

  • Tôi đã sai rồi
  • Cái nương là của nhà mình
  • Bài học đắt giá
  • Dân kiểm tra
  • Như là tai họa

Liên kết bổ ích

  • Bài giảng trực tuyến
  • Tủ sách pháp luật
  • Tờ gấp, pano, áp phích
  • Cổng thông tin điện tử pháp điển
  • Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam

Liên kết web

Thống kê truy cập

Hiện có 57 khách Trực tuyến
HTML Hit Counter
Bàn về đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2010
 Thứ tư, 21 Tháng 12 2011 13:51 - 5470 Lượt xem
PDF. In Email

       Luật Tố tụng hành chính năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01-7-2011 và bắt đầu đi vào cuộc sống. Để giúp người dân hiểu rõ và xác định đúng đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính có vai trò rất quan trọng, không chỉ trong việc giải quyết đúng đắn vụ án mà còn giúp họ bảo vệ tối đa quyền, lợi ích chính đáng của mình.

       Thực tế cho thấy, việc xác định đúng đối tượng khởi kiện vụ trong án hành chính không phải là chuyện dễ dàng đối với người dân. Vấn đề này, một mặt do hoạt động quản lý hành chính nhà nước hết sức đa dạng kéo theo sự đa dạng của các loại quyết định hành chính, hành vi hành chính; mặt khác, do nhận thức về quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện hành chính, còn có sự chưa thống nhất; cũng như việc xác định đâu là quyết định hành chính, đâu là hành vi hành chính cũng gặp nhiều khó khăn.

       Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ nêu một số quan điểm của mình về việc xác định đâu là quyết định hành chính, hành vi hành chính để giúp người dân hiểu rõ khi thực hiện quyền khiếu kiện của mình cho đúng pháp luật:

       1. Quyết định hành chính: là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể (khoản 1 điều 3 Luật TTHC). Như vậy, quyết định hành chính được hiểu là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn... do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Cụ thể, bao gồm:

       a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.

       b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính nói ở phần trên (quyết định giải quyết khiếu nại).

       Vấn đề cần phải xác định thêm là loại quyết định giải quyết khiếu nại nào thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, loại quyết định nào không. Theo cách hiểu của tôi về vấn đề này, không phải mọi quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính đều là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính. Cụ thể là, nếu quyết định giải quyết khiếu nại được ban hành theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo chỉ xem xét tính đúng sai của nội dung khiếu nại mà không làm thay đổi nội dung của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại thì không phải là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính. Ngược lai, nếu quyết định giải quyết đơn khiếu nại mà làm thay đổi nội dung của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, thì quyết định đó được xem là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính, cùng với quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại ban đầu.

       2. Hành vi hành chính: là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (khoản 2, Điều 3 Luật TTHC). Như vậy, để xác định đâu là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác; đâu là hành vi của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác; đâu là hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Để xác định vấn đề này, cần căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, công vụ đó và phân biệt như sau:

 

       a) Hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác (gọi tắt là cơ quan, tổ chức): theo quy định của pháp luật, thì nhiệm vụ, công vụ cụ thể thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức do người trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ quyền, uỷ nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ quan, tổ chức chứ không phải là hành vi hành chính của người đã trực tiếp thực hiện hành.

       Ví dụ: Theo quy định tại Điều 126 của Luật đất đai thì hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng đất nộp tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Ông Nguyễn Văn A đã nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã X theo đúng quy định, nhưng bà Trần Thị C là cán bộ nhận hồ sơ của Ủy ban nhân dân xã X đã trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Trong trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã X chứ không phải là hành vi hành chính của bà Trần Thị C.

 

       b) Hành vi hành chính của người có thẩm quyền: việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể do người được giao thẩm quyền theo quy định của pháp luật, trong cơ quan, tổ chức thì việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể đó là hành vi hành chính của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ trực tiếp thực hiện hay phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người khác thực hiện.

Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H là người có thẩm quyền tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông D, nhưng đã ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H trực tiếp tổ chức việc cưỡng chế. Trong trường hợp này, việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông D là hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H chứ không phải là hành vi hành chính của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H.

 

       c) Hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức: theo quy định của pháp luật thì việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan, tổ chức, nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình thì được coi là hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Đây là loại hành vi được thực hiện dưới dạng “không hành động” của cơ quan, tổ chức, không phụ thuộc vào việc nhiệm vụ, công vụ đó được phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người nào trong cơ quan, tổ chức.

       Ví dụ: Theo quy định tại Điều 7 của Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29-8-2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh thì Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp được thành lập trong địa giới hành chính tỉnh. Doanh nghiệp N đã nộp đầy đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ, nhưng quá thời hạn mà pháp luật quy định, Phòng đăng ký kinh doanh không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp N. Trong trường hợp này, việc không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp N là hành vi hành chính của Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A.

       d) Hành vi của người có thẩm quyền không thực hiện nhiệm vụ, công vụ: theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Đây là hành vi được thực hiện dưới dạng “không hành động” của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ đã phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người khác thực hiện.

       Ví dụ: Theo quy định tại Điều 30 của Luật cư trú thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định, Trưởng Công an xã, phường, thị trấn phải cấp sổ tạm trú cho hộ gia đình hoặc cá nhân đề nghị. Bà X đã nộp đủ giấy tờ theo quy định đề nghị Trưởng Công an xã N cấp sổ tạm trú, nhưng quá thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ mà Trưởng Công an xã N không cấp sổ tạm trú cho bà X. Trong trường hợp này, việc không cấp sổ tạm trú cho bà X là hành vi hành chính của Trưởng Công an xã N.

       Trên đây là ý kiến cá nhân của người viết, với mong muốn nêu lên một số quan điểm của mình về một vài vấn đề còn mới trong Luật Tố tụng hành chính. Rất mong được quý bạn đọc trao đổi thêm./.

Quỳnh Ly

 


Tin mới:
  • Xây dựng Bộ máy UBND cấp huyện và cấp xã như thế nào khi không còn tổ chức Hội đồng nhân dân
  • Thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2 đối với quyết định hành chính của trưởng công an xã
  • Người chưa giỏi chỉ huy người giỏi, nội bộ không yên
  • Vấn đề thực hiện quy định về "Xóa án tích" trong công tác lý lịch tư pháp
  • Tập quyền XHCN: một học thuyết đã lỗi thời?
Các tin khác:
  • Một số kinh nghiệm qua đợt khảo sát theo dõi thi hành pháp luật tại các tỉnh bạn
  • Một số ý kiến về công tác tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở cấp tỉnh
  • Góp ý vào việc tổng kết thi hành Hiến pháp 1992
  • Luật sư muốn hành nghề phải có môi trường
  • Ba vấn đề cần cảnh báo trong việc công chứng hợp đồng ủy quyền
<< Trang trước   

 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỈNH QUẢNG NAM

Trụ sở: 06 Nguyễn Chí Thanh - Thành phố Tam Kỳ - tỉnh Quảng Nam

Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Quảng Nam

Điện thoại: 0235.3852244 - Fax:0235.3852244 - Email: stp@quangnam.gov.vn

Email: stp@quangnam.gov.vn | Website: www.pbgdpl.quangnam.gov.vn

Ghi rõ nguồn "www.pbgdpl.quangnam.gov.vn" khi đưa lại thông tin từ website này