Những điều còn bất cập trong Dự thảo Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi) |
Thứ tư, 24 Tháng 6 2015 08:32 - 2444 Lượt xem |
|
|
Thứ bảy, về thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị. Khoản 2 Điều 220, quy định: “Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm … Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi … kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn … kháng nghị đã hết”. Và Khoản 3 quy định: “Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm … Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị”. Theo chúng tôi, nội dung điều luật dự thảo sửa đổi như trên không phù hợp với thực tế. Vì: 1) Theo quy định như trên Viện kiểm sát cùng cấp (sơ thẩm) ra quyết định kháng nghị, có quyền có mặt tại phiên tòa phúc thẩm để có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị. Như vậy làm sao VKS cấp sơ thẩm biết Tòa án cấp phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử khi nào để có mặt? 2) Đại diện Viện kiểm sát cấp sơ thẩm ra quyết định kháng nghị, nếu có mặt tại phiên tòa phúc thẩm, thì sự có mặt của đại diện VKS cấp phúc thẩm tại phiên tòa để làm gì? Nên chăng, Điều 220 của Dự thảo cần cơ cấu lại cho rõ ràng, tách bạch thẩm quyền của Viện kiểm sát hai cấp xử lý kháng nghị, trước và tại phiên tòa phúc thẩm. Cụ thể: Khoản 2. “Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm … Viện kiểm sát cùng cấp sơ thẩm đã ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi … kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn … kháng nghị đã hết và có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị”. Và Khoản 3. “Tại phiên tòa phúc thẩm …Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới”. Đồng thời, đoạn 2, Khoản 4, Điều 220 Dự thảo quy định: “Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa”. Theo chúng tôi, quy định như vậy là thừa, vì tất cả những diễn biến tại phiên tòa, trong cuộc họp đều phải được Thư ký phản ánh đầy đủ, trung thực vào biên bản để làm cơ sở pháp lý về sau. Đây là trách nhiệm bắt buộc của người ghi biên bản. Thứ tám, về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, theo Điều 242 của Dự thảo. Cơ cấu của Điều này có bảy khoản, đó là: 1. Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm; 2. Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm … 3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại; 4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án; 5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm; 6. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án; 7. Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội … Theo chúng tôi, Điều luật quy định như vậy còn thiếu một khoản rất quan trọng khi giải quyết vụ án hành chính thường gặp, nhưng thiếu căn cứ đó là: “Hủy một phần bản án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết vụ án”. Trong thực tế có nhiều bản án hành chính sơ thẩm giải quyết nhiều nội dung bị kiện, trong đó có nội dung vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết trái pháp luật mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, cần phải hủy một phần bản án đối với nội dung có vi phạm nghiêm trọng, nhưng không có căn cứ áp dụng để hủy một phần bản án hành chính sơ thẩm. Đo đó, nhiều trường hợp, buộc lòng Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bác đơn kháng cáo và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm. Để khắc phục vấn đề thực tiễn nêu trên, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm Khoản 8 vào Điều 242 của Dự thảo: “Hủy một phần bản án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết vụ án”. Có như vậy điều luật mới được đầy đủ và phù hợp với thực tế khách quan. Thứ chín, về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt, tại Điều 324 của Dự thảo. Có hai phương án: “Phương án 1: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. Phương án 2: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính do Tòa án nhân dân quy định”. Chúng tôi xét thấy cả hai phương án, không có phương án nào phù hợp theo quy định của pháp luật. Bởi tại Điều 4 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Quốc hội đã giao cho Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh … Do đó, để thực hiện đúng quy định của pháp luật, Điều 324 nêu trên cần quy định: “Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt và các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính do Chính phủ quy định”./.
Thân Phước Thành Tin mới:
Các tin khác:
|