Tổng hợp góp ý đối với Dự án Luật Đất đai (sửa đổi)
 Thứ hai, 20 Tháng 3 2023 10:15 - 413 Lượt xem
In

Thực hiện Kế hoạch số 563/KH – UBND, ngày 06/02/2023 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật đất đai(sửa đổi). Sở Tư pháp đã tổ chức lấy ý kiến của công chức, viên chức cơ quan Sở Tư pháp qua cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp, qua tổng hợp, có một số góp ý sau đây:
1. Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
- Đề nghị bổ sung nội dung vào khoản 2, Điều 34 của Dự thảo "Tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất; chỉ được bồi thường những tài sản gắn liền với đất theo giá thị trường".
- Đề nghị bổ sung vào khoản 5, Điều 107 của Dự thảo với nội dung "... Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư đã được xác định tại thời điểm phê duyệt phương án, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cũng được áp dụng cho trường hợp cơ quan có thẩm quyền chậm giao đất tái định cư, dẫn đến giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư có biến động tăng tại thời điểm thực hiện giao đất tái định cư (có quyết định giao đất tái định cư); trừ trường hợp người có đất bị thu hồi từ chối nhận đất tái định cư, không thực hiện hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất nơi tái định cư".
Việc bổ sung nội dung trên vừa đảm bảo có cơ sở để thực hiện các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại khoản 2, khoản 4 của Điều 89 Dự thảo "Đảm bảo cho người dân có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ; việc xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải thực hiện trước khi có quyết định thu hồi đất...". Đồng thời đảm bảo cơ sở để triển khai thực hiện và phù hợp với quy định tại khoản 3, Điều 150 của Dự thảo về thời điểm tính thu tiền sử dụng đất.
- Đề nghị bổ sung vào khoản 3, Điều 89 của Dự thảo: "Việc bồi thường về đất được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất thị trường của loại đất thu hồi do UBND cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư".
- Đề nghị bổ sung làm rõ nội dung tại khoản 4, Điều 89, cụ thể: "Việc tổ chức xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải thực hiện trước khi có quyết định thu hồi đất 90 ngày".
- Việc bồi thường thiệt hại về nhà, công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất: Đề nghị bổ sung vào khoản 4, Điều 99 của Dự thảo: "Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá thị trường ban hành bảng đơn giá bồi thường thiệt hại thực tế về nhà, công trình xây dựng quy định tại Điều này để làm căn cứ tính bồi thường khi thu hồi đất".
- Về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi, đề nghị bổ sung nội dung vào khoản 3, Điều 100 của Dự thảo: "Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành đơn giá bồi thường thiệt hại về cây trồng theo quy định của pháp luật về trồng trọt; đơn giá bồi thường thiệt hại về vật nuôi quy định tại Điều này để làm căn cứ tính bồi thường khi thu hồi đất theo hướng đảm bảo quyền lợi cho người dân".
- Đề nghị điều chỉnh lại nội dung Điều 96 Dự thảo "Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở của tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cộng đồng dân cư, tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài." vì tín ngưỡng không có tổ chức.

2. Về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận và các thủ tục hành chính, dữ liệu, thông tin đất đai
- Về việc xác định diện tích đất ở đối với trường hợp đất có vườn, ao, hạn mức đối với đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp của hộ gia đình cá nhân:
Tại khoản 2, 3 và 4 Điều 139 Dự thảo quy định người sử dụng đất mà có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 135 thì diện tích đất được xác định "theo giấy tờ đó". Thực tế tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua phát sinh nhiều vướng mắc dẫn đến nhiều vụ khiếu nại kéo dài liên quan đến vấn đề này, gây nhiều khó khăn, thiệt hại cho những hộ dân có liên quan. Cụ thể có nhiều Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người dân trong đó có ghi "đất thổ cư". Đất "thổ cư", theo cách hiểu thông thường của nhiều người là "đất ở". Tuy nhiên, ở nhiều địa phương trong tỉnh không thừa nhận toàn bộ đất "thổ cư" theo giấy tờ được cấp là "đất ở", mà chỉ thừa nhận một phần trong đó là đất ở mà thôi. Cách nhìn nhận này đã gây thiệt thòi về quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi, do bồi thường không thỏa đáng.
Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp liên quan nội dung trên, người dân khởi kiện vụ việc ra Tòa án và hầu hết đều được Tòa án công nhận là đất ở. Từ thực tế quản lý sử dụng đất ở địa phương cho thấy đây là nội dung cần thiết phải được luật hóa cụ thể để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân. Do đó, đề nghị cần bổ sung nói rõ trong điều luật những trường hợp trên giấy tờ về quyền sử dụng đất có ghi loại đất "thổ cư: được coi là "đất ở". Việc đồng nhất hai khái niệm "thổ cư" và "đất ở" một cách cụ thể trong Dự thảo sẽ góp phần làm giải vụ việc khiếu nại đã và đang xảy ra.
- Về các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất:
Tại khoản 1, Điều 144 Dự thảo quy định "Đất thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn". Đề nghị sửa đổi, bổ sung viết lại thành "Đất thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn hiện nay đang quản lý".
3. Về người sử dụng đất quy định tại Điều 5 của Dự thảo
- Tại khoản 2 quy định "Hộ gia đình sử dụng đất gồm những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, có quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (sau đây gọi là hộ gia đình". Đề nghị bỏ cụm từ "Hộ gia đình sử dụng đất" vì việc xác định các thành viên trong hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng đến việc thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất. Thay vào đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên của chủ hộ gia đình.
4. Về người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất:
Tại khoản 3, Điều 7 của Dự thảo quy định: "Người đại diện cho cộng đồng dân cư là trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, bon, phum, sóc, tổ dân phố hoặc người được cộng đồng dân cư thỏa thuận cử ra đối với việc sử dụng đất đã giao, công nhận cho cộng đồng dân cư". Đề nghị xem tính khả thi, vì cộng đồng dân cư trưởng thôn, làng, ấp, bản không phải là đơn vị hành chính chỉ là tổ chức tự quản. Dự thảo nên quy định giao Chủ tịch UBND cấp xã quản lý.

VB-TT


Tin mới:
Các tin khác: