Báo cáo Đề dẫn tại Tọa đàm về tình hình công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2005 đến nay và phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới |
Thứ tư, 27 Tháng 6 2012 13:41 - 11364 Lượt xem |
|
|
I. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và sự tác động tích cực của nó đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam Ngày 09/12/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân. Sau khi Chỉ thị số 32-CT/TW được ban hành, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng đã bắt đầu có sự chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. 1. Quá trình phát triển về nhận thức, về tổ chức phối hợp và trưởng thành của đội ngũ những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trước hết, Chỉ thị số 32 đã “Xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đây là quan điểm chỉ đạo có ý nghĩa rất quan trọng, đặt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vào đúng tầm vóc và vị trí mà yêu cầu khách quan đang đòi hỏi, đồng thời cũng chỉ ra nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác này. Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo trên, từ năm 2005 đến nay, có thể nói nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng về vai trò, tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được nâng lên một bước; nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng đã coi phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; thường xuyên quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện, như trong Kết luận số 04-KL/TW đã nêu. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (gọi tắt là Hội đồng phối hợp) ở 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) và một số ngành được thành lập, đã không ngừng được củng cố, kiện toàn thường xuyên hằng năm để phát huy vai trò phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, đơn vị thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên Công sản Hồ Chí Minh... đã có nhiều cố gắng, phối hợp với các cơ quan nhà nước tích cực triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân; bước đầu đã thực hiện được chủ trương xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, huy động được một số nguồn lực của xã hội cho công tác này. Bộ phận tham mưu cho các cấp chính quyền về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục được cũng cố, kiện toàn theo hướng chuyên sâu. Sở Tư pháp thành lập Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật trên cơ sở chia tách Phòng Văn bản - Tuyên truyền; Phòng Tư pháp các huyện, thành phố phân công lãnh đạo Phòng chuyên trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; một số sở, ngành bố trí chuyên viên pháp chế tham mưu thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đội ngũ những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên phạm vi toàn tỉnh ngày càng đông đảo. Trước hết là lực lượng báo cáo viên pháp luật của tỉnh và các huyện, thành phố từng bước được chuẩn hóa đảm bảo đúng quy định của Bộ Tư pháp về trình độ chuyên môn, có tâm huyết, nhiệt tình với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (đến nay, Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh có 99 đồng chí; và 18 huyện, thành phố có 323 đồng chí). Đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật ở cấp xã, theo báo cáo của các địa phương, đến nay toàn tỉnh có 2.143 đồng chí (398 đồng chí có trình độ đại học; số còn lại có trình độ trung cấp). Đội ngũ này, trong những năm gần đây thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền và bổ sung kiến thức pháp luật mới hằng năm, đây là lực lượng chủ yếu đưa pháp luật đến với cán bộ và nhân dân ở các khu dân cư. Lực lượng hòa giải viên cơ sở ở các thôn, bản, khối phố ngày càng được củng cố, nâng cao về chất lượng và đông đảo về số lượng. Trong 02 năm 2010 và 2011, trong khuôn khổ thực hiện Đề án 2 của Chương trình 37, Sở Tư pháp đã tổ chức được 6 lớp tập huấn, theo cụm liên huyện thuộc 2 khu vực miền núi và đồng bằng, để bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ hòa giải và bổ sung kiến thức pháp luật cho gần 1.200 Tổ trưởng tổ hòa giải. Cũng trong khuôn khổ thực hiện Đề án 2 của Chương trình 37, Phòng Tư pháp các huyện, thành phố cũng đã cơ bản hoàn thành việc bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải cơ sở và bổ sung kiến thức pháp luật mới cho hơn 7.000 hòa giải viên trên toàn tỉnh. Bên cạnh đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền viên và Hòa giải viên nói trên, còn phải nói đến một đội ngũ quan trọng nữa, đó là các Trợ giúp viên pháp lý cùng với các Luật sư là cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình cũng đã góp một phần rất lớn cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (xem thêm bài tham luận của đồng chí Lê Văn Hương, PGĐ Trung tâm TGPL, trong tập tài liệu). Nhìn chung, đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật, Hòa giải viên cơ sở và Trợ giúp viên pháp lý trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hầu hết là có tâm huyết với công việc, nhiệt tình và luôn biết tự trau dồi kỹ năng, nghiệp vụ truyên truyền, bổ sung kiến thức pháp luật mới để phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân. 2. Nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được sử dụng phù hợp, có hiệu quả và không ngừng được đổi mới, phát huy tính sáng tạo Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật truyền thống tiếp tục được phát huy cùng với sự kết hợp vận dụng linh hoạt, sáng tạo một số hình thức mới. Tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền được sử dụng khá linh hoạt: thông qua hội nghị tập huấn, tọa đàm, bồi dưỡng kiến thức pháp luật; thông qua sóng truyền thanh, tư vấn trực tiếp, trợ giúp pháp lý lưu động, hoạt động xét xử tại các phiên tòa... Cùng với việc sử dụng hình thức tuyên truyền miệng, phương tiện hỗ trợ bằng ampli, máy chiếu projiecter... được sử dụng khá phổ biến ở nhiều đơn vị, địa phương cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả của hình thức tuyên truyền miệng. Thi tìm hiểu pháp luật trong những năm qua cũng là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được chú trọng sử dụng một cách phù hợp ở nhiều ngành, địa phương, như: thi viết, sân khấu hóa, rung chuông vàng... đã thu hút được sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó việc biên soạn tờ gấp, đề cương tuyên truyền cũng được sử dụng dành cho nhiều nhóm đối tượng phù hợp. Những năm gần đây, có một số hình thức phổ biến, giáo dục mới được các địa phương khai thác sử dụng có hiệu quả, như: phiên tòa giả định, ngày pháp luật, giới thiệu văn bản và tư vấn qua cổng thông tin điện tử... Thực tế cho thấy, Cổng thông tin điện tử của Hội đồng phối hợp tỉnh được nâng cấp và đi vào hoạt động chính thức kể từ đầu tháng 11/2011 đến nay, đã có hơn 660 ngàn lượt khách truy cập, bình quân có hơn 3000 lượt mỗi ngày. Có thể nói đây là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đang có xu hướng phát triển tốt, phù hợp xu thế phát triển của xã hội hiện nay vì tính phong phú, đa dạng và linh hoạt của nó. 3. Nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật được lựa chọn phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của các nhóm đối tượng Trong những năm gần đây, Hội đồng phối hợp các cấp đã có sự đổi mới căn bản về nhận thức trong việc lựa chọn, xác định nội dung tuyên truyền pháp luật cho nhân dân. Trước đây, từ chỗ nhận thức rằng pháp luật (đặc biệt là các luật do Quốc hội ban hành sau mỗi kỳ họp) chính là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, do đó phải được tuyên truyền rộng khắp đến tất cả mọi người dân, dẫn đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bị dàn trãi, ôm đồm kém hiệu quả, do thiếu trọng tâm, không phù hợp với nhu cầu và tâm lý đối tượng. Từ năm 2010, qua tổng kết thực hiện Chương trình 212, trong số những bài học kinh nghiệm được rút ra, có bài học về sự lựa chọn nội dung pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng để tuyên truyền. Phương châm thực hiện được kinh nghiệm là chỉ cung cấp cho đối tượng những gì họ đang cần. Chính vì biết khảo sát, thăm dò để xác định đúng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân ở từng vùng, miền, nghề nghiệp, độ tuổi khác nhau mà các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được các địa phương, đơn vị sử dụng tương ứng; báo cáo viên pháp luật ở các cấp, ngành đã chuyển tải đến người nghe những nội dung họ đang cần được nghe, được biết. 4. Tình hình tổ chức thực hiện của các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2005 đến 2012 * Để tăng cường hoạt động đưa Chỉ thị số 32-CT/TW vào cuộc sống, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ ban hành “Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010” (theo Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ - gọi tắ là Chương trình 212). Chương trình 212 có 4 đề án trọng tâm được giao cho các sở, ngành của tỉnh chủ trì và phối hợp thực hiện, đã được tổ chức triển khai tương đối toàn diện từ năm 2007 đến hết 2010: Đề án thứ nhất: "Đưa thông tin pháp luật đến với cán bộ, nhân dân thông qua phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hóa - thông tin ở xã, phường, thị trấn", do Sở Văn hoá - Thông tin chủ trì. Đề án thứ hai: "Xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư", do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh chủ trì. Đề án thứ ba: "Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn", do Thanh tra tỉnh chủ trì. Đề án thứ tư: "Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn", do Sở Tư pháp chủ trì. Nhìn chung, qua quá trình thực hiện các đề án nói trên, chúng ta đã thu được nhiều kết quả quan trọng và rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Như đã xây dựng được nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp, ngành; hình thành được đội ngũ những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đông đảo về số lượng và đảm bảo về chất lượng; nhiều mô hình, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được phát huy sử dụng có hiệu quả; vai trò và trách nhiệm của cộng đồng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bước đầu được hình thành... * Ngày 12/3/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 (gọi tắt là Chương trình 37). Trong Chương trình 37 có 4 đề án trọng tâm, được tỉnh triển khai và giao nhiệm vụ: - Đề án thứ nhất: “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”, do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì; - Đề án thứ hai: “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước”, do Sở Tư pháp chủ trì; - Đề án thứ ba: “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”, do Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì; - Đề án thứ tư: “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp”, do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì. Năm 2012 này là năm kết thúc thực hiện Chương trình 37, tuy nhiên tình hình triển khai thực hiện 4 đề án nói trên diễn ra không đồng đều. Đề án thứ nhất, mới bước vào giai đoạn “khởi động”; Đề án thứ ba hoàn toàn chưa triển khai được; riêng hai đề án còn lại là Đề án thứ hai và Đề án thứ tư được tổ chức triển khai ngày từ năm 2009 và đã thu được một số kết quả nhất định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ nhiều hạn chế. * Hiện nay, còn 2 đề án phổ biến, giáo dục pháp luật khác là: Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015 và Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân từ năm 2012 đến năm 2016; vẫn chưa có kế hoạch triển khai cụ thể. 5. Việc bố trí kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được các cấp chính quyền quan tâm ngày càng nhiều hơn Do nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nên từ năm 2005 đến nay tỉnh cũng như các huyện, thành phố đã có sự quan tâm bố trí kinh phí ngày một đảm bảo hơn cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật được tích cực triển khai và bổ sung kinh phí thực hiện. Tuy nhiên, việc bố trí kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm qua, có sự mất cân đối rất lớn giữa các cấp, các ngành, càng xuống cơ sở kinh phí được bố trí càng hạn hẹp, trong khi đại đa số đối tượng có nhu cầu phổ biến pháp luật lại ở cơ sở, khó tiếp cận thường xuyên cơ quan cấp tỉnh. II. Những vấn đề bất cập hiện nay trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và những nguyên nhân Bên cạnh những kết quả to lớn của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật mà các cấp, các ngành của tỉnh đã đạt được trong gần 10 năm qua, kể từ sau khi Chỉ thị số 32-CT/TW ra đời đến nay; trên địa bàn tỉnh Quảng Nam công tác này vẫn đang còn nhiều bất cập. Kết luận số 04 -KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư đã chỉ ra cụ thể 3 nội dung lớn về những bất cập và nguyên nhân bất cập của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian qua, trên phạm vi cả nước, nhưng đó cũng là những vấn đề đã và đang còn tồn tại ở Quảng Nam như chúng ta đã biết, báo cáo này xin không nhắc lại. Trong phần đề dẫn này, chúng tôi xin nêu thêm những vấn đề bất cập mang đặc điểm riêng của Quảng Nam, như sau: 1. Về cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp Sở Tư pháp (cấp tỉnh), Phòng Tư pháp (cấp huyện) và Ban Tư pháp (cấp xã) được giao nhiệm vụ là cơ quan Thường trực của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; có chức năng tham mưu cho UBND cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; tham mưu cho Hội đồng phối hợp xây dựng và tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các ngành và địa phương. Với chức năng, nhiệm vụ được giao như trên, nhưng thực tế hiện nay, bộ phận giúp việc trực tiếp cho cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp ở các cấp (nhất là cấp tỉnh) hầu như chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Ở cấp tỉnh, Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật của Sở Tư pháp nhiều năm nay luôn trong tình trạng thiếu nhân lực, hiện tại chỉ có một Trưởng phòng và một nhân viên hợp đồng. Phòng Tư pháp cấp huyện hầu hết cũng chỉ bố trí một cán bộ lãnh đạo (hoặc chuyên viên) chuyên trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Ở cấp xã, cán bộ Tư pháp - hộ tịch ở phần lớn các địa phương chỉ có một người, lại phải đảm đương nhiều loại công việc khác nhau, nên công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp xã vẫn còn nhiều hạn chế. Thực trạng về nhân lực làm việc như vậy đã tồn tại nhiều năm, làm cho công tác tham mưu của cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp các cấp gặp nhiều khó khăn, không tương xứng với yêu cầu công việc được giao. 2. Về bố trí kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Có các bất cập sau đây: - Giao kinh phí cho việc tổ chức thực hiện các đề án ở cấp tỉnh hằng năm thường bị chậm; đồng thời do cơ chế phân công, phối hợp, tổ chức triển khai thực hiện các đề án như hiện nay làm cho nguồn kinh phí bị phân tán ra nhiều đầu mối, khó theo dõi đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện. Hội đồng phối hợp tỉnh chưa có điều kiện tổ chức khảo sát, kiểm tra việc sử dụng kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước cho các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật, do đó chưa có cơ sở đánh giá chính xác về tính hiệu quả đối với nguồn kinh phí đầu tư hằng năm cho công tác này. Trước khi trình Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định cấp kinh phí cho các đề án, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Tài chính chưa có sự phối hợp và trao đổi ý kiến cụ thể với Sở Tư pháp, nên việc cấp kinh phí có trường hợp chưa đúng trọng tâm công việc (Ví dụ như Quyết định số 1243/QĐ-UBND ngày 17/4/2012 của UBND tỉnh về bổ sung kinh phí cho các cơ quan, đơn vị để thực hiện các đề án tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012; nhưng thực tế có nhiều nội dung cấp kinh phí không thuộc phạm vi phổ biến, giáo dục pháp luật, như “đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn” của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, “đề án tuyên truyền xây dựng nông thôn mới” của Hội Nông dân...). Kinh phí dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp huyện hằng năm còn hạn chế và nhìn chung là chưa đảm bảo cho việc triển khai đầy đủ các hoạt động như yêu cầu của các đề án. Đặc biệt ở cấp xã, là nơi cư trú của các tầng lớp nhân dân, chặn cuối cùng tiếp nhận và hưởng thụ các giá trị tinh thần của các đề án phổ biến pháp luật, nhưng kinh phí cấp xã dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hằng năm rất thấp (phổ biến từ 02 đến 05 triệu đồng/ năm). - Giao kinh phí không cân đối theo yêu cầu nhiệm vụ: Kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật hằng năm tỉnh cấp cho cơ quan Thường trực khoảng 120 triệu để thực hiện tất cả các nhiệm vụ được giao trên phạm vi toàn tỉnh; trong khi đó kinh phí cấp cho các đề án hằng năm vượt xa con số này chỉ để thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi “làm điểm” hoặc cho một nhóm đối tượng nhất định hoặc cho việc phổ biến pháp luật trên một lĩnh vực nhất định; 3. Một số bất cấp trong việc tổ chức triển khai thực hiện các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật Trong thời gian qua, các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giao cho một số sở, ngành chủ trì thực hiện đã bộc lộ một số bất cập như sau: - Giữa cơ quan chủ trì và cơ quan tham gia đề án thiếu sự hỗ trợ, phối hợp cần thiết; các hoạt động chủ yếu của đề án đều do cơ quan chủ trì thực hiện; ngay cả Sở Tư pháp, cơ quan Thường trực theo dõi thực hiện các đề án cũng không đủ khả năng tham gia phối hợp với các ngành liên quan. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do các cơ quan được giao chủ trì đề án không đủ nhân lực để bố trí thực hiện nên phải phân công làm việc kiêm nhiệm; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không phải là nhiệm vụ chuyên môn của các sở, ngành (trừ Sở Tư pháp); - Do thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu sự phối hợp tích cực của các đơn vị thành viên nên việc tổ chức thực hiện đề án phổ biến, giáo dục pháp luật của các sở, ngành chủ yếu thực hiện ở 3 khâu công việc cơ bản là: Tổ chức khảo sát, mở lớp tập huấn và in tờ gấp. Tuy nhiên, việc thực hiện 3 khâu công việc này phần lớn cũng chỉ trong phạm vi các địa bàn chọn làm “điểm”. Sau đó không nhân rộng được (do không đủ nguồn lực tài chính và con người) cho nên phải làm công việc cuối cùng là tổng kết và báo cáo. Mục đích của việc thực hiện “điểm” chính là để có kinh nghiệm nhân rộng ra, nhưng phần lớn các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật thời gian qua đều kết thúc sau khi làm “điểm”, do đó có thể nói hiệu quả đem lại, xét trên phạm vi toàn cục, là không lớn. - Do việc tổ chức thực hiện các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian qua còn ở phạm vi “làm điểm”, mà chưa có điều kiện nhân ra “diện rộng”, nên chưa thấy rõ sự hiện tượng trùng lắp, giẫm chân lên nhau giữa các đề án về nội dung, đối tượng và địa bàn thực hiện. Ví dụ như Luật đất đai, Luật Khiếu nại, tố cáo, Bộ Luật dân sự, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... đề án nào cũng đưa vào kế hoạch triển khai thực hiện; các thành phần quân - dân - chính ở cấp xã, đề án nào cũng đưa vào kế hoạch là đối tượng để tuyên truyền chủ yếu; Tổ hòa giải ở các khu dân cư do ngành tư pháp quản lý có thành phần gần giống như “Nhóm nòng cốt” do Mặt trận Tổ quốc xây dựng, với chức năng tương tự như nhau là giáo dục pháp luật và vận động nhân dân chấp hành pháp luật. Việc tổ chức mở lớp tập huấn ở các đề án hầu hết chỉ thực hiện được từ 01 đến 02 ngày/lớp, với hình thức đơn điệu theo truyền thống là lấy báo cáo viên làm trung tâm; thời gian tập huấn ít nhưng nội dung tuyên truyền lại sắp xếp quá nhiều làm cho học viên bị “quá tải” khó tiếp thu hết. - Kinh phí thực hiện đề án, nhìn chung được giao cho các cơ quan chủ trì ở cấp tỉnh (ngân sách ở cấp huyện hầu như chưa bảo đảm được cho việc thực hiện các đề án tại địa phương), trong khi các địa bàn dân cư ở cơ sở thì nhiều, lại quá rộng với những vùng miền khác nhau, do đó hoạt động phổ biến pháp luật trực tiếp cho nhân dân hầu như các đề án không làm được bao nhiêu. Qua theo dõi, khảo sát thực tế của Sở Tư pháp ở nhiều địa phương trong năm 2011, cho thấy ở các địa bàn dân cư thôn, bản, khối phố mỗi năm chỉ họp dân được từ 02 đến 04 lần, thường là vào ban đêm. Trong các cuộc họp đó, thời lượng dành cho phổ biến pháp luật chưa đến 50%, người truyền đạt chủ yếu là Tuyên truyền viên của xã, phường, thị trấn, đồng thời có sự hỗ trợ một phần của Báo cáo viên cấp huyện. Kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở cho đến nay, bình quân chưa quá 5 triệu đồng/01 đơn vị cấp xã. Kinh phí của tỉnh cấp cho các đề án hằng năm với con số cộng dồn trên 01 tỷ đồng, là để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, nhưng với thực trạng trên cho thấy có hiện tượng “mưa không thấm đất” trong việc sử dụng nguồn kinh phí cho công tác này. Nguyên nhân của tình trạng trên đây có nhiều, nhưng theo chúng tôi nguyên nhân chủ yếu là cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được một tổ chức thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật một cách chuyên nghiệp, đảm bảo sự tập trung thống nhất về nguồn lực con người và tài chính. Trong khi hiện nay Sở Tư pháp cùng lúc quản lý 2 bộ phận có chức năng phổ biến, giáo dục pháp luật là Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật (thực hiện chức năng chung theo diện rộng) và Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (thực hiện chức năng theo nhóm đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số) nhưng cả 2 bộ phận này hoạt động lại không đồng bộ, không cân đối về nguồn lực, cơ chế quản lý cũng có nhiều điểm khác nhau và thực tế cũng chưa có sự phối hợp với nhau (do chưa có cơ chế) trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. III. Phương hướng nhiệm vụ và giải pháp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian đến Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới được tổ chức triển khai thực hiện một cách đồng bộ, có sự phối hợp tích cực giữa các cơ quan liên quan với cơ quan chuyên trách nhằm đem lại hiệu quả thiết thực, đưa pháp luật cần thiết đến với người dân ở cơ sở; đồng thời giáo dục pháp luật, nâng cao tinh thần tự giác tìm hiểu pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang, cần thực hiện tốt các phương hướng nhiệm vụ và giải pháp sau đây. 1. Phương hướng nhiệm vụ 1.1. Quán triệt sâu rộng đến các cấp, các ngành, cán bộ và nhân dân Kết luận 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 19/12/2003 của Ban Bí thư TƯ Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Tăng cường hơn nữa mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan Tuyên giáo của cấp ủy các cấp với cơ quan Tư pháp địa phương nhằm bảo đảm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thực sự là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng. 1.2. Coi trọng và tập trung hơn nữa cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân (gọi chung là cán bộ) và coi nhóm đối tượng này là trọng tâm, trên phương diện: hiểu biết pháp luật để phục vụ tốt nhiệm vụ chuyên môn; thực thi pháp luật đúng đắn để làm gương cho nhân dân học tập và noi theo. Nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức giáo dục pháp luật cho cán bộ thuộc phạm vi quản lý của mình. 1.3. Hướng mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về cơ sở; coi người dân ở các địa bàn dân cư thôn, bản, khối phố là đối tượng tuyên truyền và lấy đội ngũ tuyên truyền viên cấp xã, hòa giải viên cơ sở làm lực lượng nòng cốt cho công tác này có sự hướng dẫn, hỗ trợ tích cực của cơ quan Tư pháp cấp trên. 1.4. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường học. Ở cấp huyện, lấy học sinh các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông làm đối tượng tuyên truyền; Phòng Tư pháp phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo và Ban Giám hiệu Trường PTTH cùng với đội ngũ Báo cáo viên pháp luật cấp huyện là lực lượng tuyên truyền. Ở cấp tỉnh, lấy sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và các trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề làm đối tượng tuyên truyền; Sở Tư pháp phối hợp với Tỉnh đoàn, Sở Giáo dục và Đào tạo, Ban Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và lãnh đạo các trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề cùng với đội ngũ Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh làm lực lượng tuyên truyền. 1.5. Quan tâm hơn nữa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp. Đối với người lao động, thực hiện theo nguyên tắc người quản lý lao động phải sắp xếp, bố trí thời gian và địa điểm, ít nhất 02 lần/năm, để người lao động được nghe Báo cáo viên pháp luật giới thiệu các quy định pháp luật có liên quan đến người lao động. Đối với người quản lý lao động, phải được thường xuyên giới thiệu các văn bản pháp luật liên quan thông qua việc hướng dẫn, chỉ đạo tra cứu trên mạng internet để nghiên cứu thực hiện. Sở Lao động, Thương bình và Xã hội phối hợp Liên đoàn lao động tỉnh tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp. 1.6. Đổi mới nhận thức về mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp với cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp nhằm phát huy nguồn lực Báo cáo viên pháp luật các cấp, Tuyên truyền viên pháp luật, Hòa giải viên cơ sở trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. 2. Các giải pháp: Ngoài các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đã được xác định trong Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương và Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ban kèm theo Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ; Sở Tư pháp xin đề xuất thêm một số giải pháp cụ thể như sau: 2.1. Cần thống nhất lại quan điểm phân loại đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật theo hai nhóm cơ bản, như sau: - Nhóm đối tượng thứ nhất là “cán bộ”: được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang (nói chung là tất cả các đối tượng đang làm việc và hưởng lương từ ngân sách nhà nước); - Nhóm đối tượng thứ hai là “nhân dân”: cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: mọi tầng lớp nhân dân ở các địa bàn dân cư (nói chung là tất cả các đối tượng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc đang hưởng lương nhưng đó là lương hưu và trợ cấp xã hội). 2.2. Từ quan điểm phân loại theo nhóm đối tượng như trên, đi đến phân công thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cụ thể như sau: - Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhóm “cán bộ” thuộc về trách nhiệm của thủ trưởng hoặc người đứng đầu các cấp, ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị; - Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhóm “nhân dân” thuộc về trách nhiệm của Hội đồng phối hợp các cấp, do một cơ quan chuyên trách ở cấp tỉnh thực hiện có tính chuyên nghiệp và chuyên môn cao. Cho đến nay, ở cấp tỉnh chúng ta chưa có một cơ quan chuyên trách để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật mang tính chuyên nghiệp để làm nòng cốt, chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan, đưa pháp luật đến với cán bộ và nhân dân. Theo chúng tôi, đây là nguyên nhân lớn nhất làm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vừa bị dàn trải, phân tán khó theo dõi quản lý, vừa thiếu tính nòng cốt bảo đảm cho sự phối hợp tích cực giữa các cấp, ngành, đơn vị trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, do đó dẫn đến hiệu quả công tác này bị hạn chế. 2.3. Về cơ chế phối hợp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời gian đến cần được thực hiện theo nguyên tắc: - Cơ quan (tổ chức) chuyên trách công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thực hiện chức năng tham mưu quản lý, tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho “nhân dân”, có sự tham gia của các báo cáo viên pháp luật chuyên ngành do các sở, ngành liên quan phối hợp phân công; - Thủ trưởng hoặc người đứng đầu các ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho “cán bộ” thuộc phạm vi quản lý của mình, có sự phối hợp của cơ quan chuyên trách theo phạm vi yêu cầu. 2.4. Việc bố trí kính phí cho các sở, ban, ngành, đoàn thể hàng năm cần có mục riêng cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, không bố trí chung trong mục chi hành chính như lâu nay; có như vậy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở các sở, ngành, đơn vị mới có thể thực hiện có kết quả. 2.5. Hướng mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về cơ sở, kết hợp trợ giúp pháp lý, hòa giải cơ sở với việc thực hiện các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật để người dân ở cơ sở thực sự được hưởng lợi từ nguồn kinh phí do trung ương và tỉnh cung cấp. 2.6. Phát huy thế mạnh của phương tiện thông tin đại chúng (Đài QRT và Báo Quảng Nam); tiếp tục đầu tư cho hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua mạng Intenet, trước hết là Website của Hội đồng phối hợp tỉnh. 2.7. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, hoạt động xét xử của Tòa án, nhất là xét xử lưu động. IV. Định hướng tham luận 1. Đề nghị đại biểu tham gia Tọa đàm cho ý kiến đánh giá sâu thêm về thực trạng tình hình công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay ở tỉnh Quảng Nam cũng như các huyện, thành phố trong tỉnh (nói rõ mặt tích cực đồng thời nêu cụ thể những hạn chế, yếu kém). Chúng ta cần phải làm gì để phát huy hơn nữa những thành quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế yếu kém hiện nay. 2. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay đang đứng trước một thực trạng là: đối với nhóm đối tượng “cán bộ” thì ít tự giác nghiên cứu tìm hiểu pháp luật, trong khi thủ trưởng các cơ quan chưa thực sự quan tâm đến công tác này; đối với nhóm đối tượng “nhân dân” thì ít đến dự nghe phổ biến pháp luật tại trụ sở thôn, khối phố, trong khi các buổi tuyên truyền ở địa phương tổ chức không nhiều. Nhận định như vậy có đúng không? Theo anh (chị) hướng khắc phục như thế nào? 3. Hội đồng phối hợp hiện nay ở các cấp hoạt động có hiệu quả không? Có những ưu, khuyết điểm nào về mô hình tổ chức, về phối hợp chỉ đạo, thực hiện? Hướng củng cố, kiện toàn trong thời gian tới? 4. Đội ngũ Báo cáo viên pháp luật hiện nay, số lượng và chất lượng đã đáp ứng được yêu cầu chưa? Cơ chế thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như hiện nay đã tạo điều kiện phát huy được đội ngũ báo cáo viên tham gia vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hay chưa? Trong thời gian tới nên củng cố, kiện toàn và nâng cao đội ngũ báo cáo viên theo hướng nào? 5. Theo Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ thì từ nay đến năm 2016, có 11 đề án phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải được tiếp tục triển khai thực hiện, (chưa kể 2 đề án khác ngoài QĐ409). Với số lượng đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật nhiều như vậy, theo các đồng chí chúng ta phải tổ chức triển khai thực hiện như thế nào để vừa đảm bảo đưa pháp luật đến với cán bộ, nhân dân vừa không bị chồng chéo, “giẫm chân” nhau giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp thực hiện, và nhất là khả năng chi ngân sách của địa phương trong điều kiện kinh tế khó khăn như hiện nay? 6. Như ở phần trên, Báo cáo này cho rằng vấn đề hạn chế của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất là cho đến nay chúng ta chưa có một tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật một cách chuyên nghiệp, làm cho công tác này bị dàn trải, phân tán khó theo dõi, quản lý và thực hiện kém hiệu quả. Ý kiến của đại biểu về nhận định này như thế nào? Nếu chúng ta cần phải có một tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật một cách chuyên nghiệp, thì tổ chức đó được hình thành như thế nào? theo mô hình nào? 7. Ngoài những vấn đề nêu trên, đại biểu có thể nêu thêm những vấn đề được cho là cần thiết, nhưng không nên vượt ra ngoài khuôn khổ của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tin mới:
Các tin khác:
|