Một số vấn đề mới trong Luật viên chức năm 2010 |
Thứ hai, 26 Tháng 12 2011 09:26 - 5849 Lượt xem |
|
|
Ngày 15/11/2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Viên chức. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Luật Viên chức được ban hành trên cơ sở tiếp tục kế thừa các quy định tích cực của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1999. Dưới đây là một số điểm mới của Luật Viên chức so với Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1999. 1. Luật Viên chức làm rõ khái niệm viên chức, hoạt động nghề nghiệp của viên chức: Điều 2 Luật Viên chức quy định: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Như vậy, có thể thấy Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã có sự phân định rõ ràng “cán bộ” với “công chức”, nay Luật Viên chức cũng tiếp tục làm rõ khái niệm “viên chức”, để phân biệt viên chức với cán bộ, công chức. Điểm khác biệt cơ bản của viên chức so với cán bộ, công chức chính là chế độ tuyển dụng gắn với vị trí việc làm, thông qua chế độ hợp đồng làm việc và tiền lương được hưởng từ quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Mặt khác, lao động của viên chức là loại lao động không mang tính quyền lực nhà nước mà chỉ thuần túy là hoạt động nghề nghiệp mang tính chuyên môn, nghiệp vụ nhằm cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Vì vậy, Luật Viên chức cũng đã làm rõ: “Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật về viên chức và các pháp luật có liên quan” (Điều 4). 2. Xác định các vấn đề chung nhất trong nghề nghiệp của viên chức và quản lý viên chức Luật Viên chức đã quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức; các nguyên tắc quản lý viên chức phù hợp với thể chế chính trị của Việt Nam và tính chất, đặc điểm lao động của viên chức. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức, Luật Viên chức đã làm rõ các khái niệm cơ bản như vị trí việc làm, tuyển dụng, hợp đồng làm việc, đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử. Đặc biệt, Luật quy định về “chức danh nghề nghiệp” thay cho quy định về “ngạch” để khắc phục các hạn chế trong quản lý đội ngũ viên chức hiện nay. Ngoài ra, Luật Viên chức còn bổ sung một số quy định mang tính định hướng liên quan đến chính sách xây dựng, phát triển các đơn vị sự nghiệp công lập và đội ngũ viên chức. 3. Hoàn thiện và bổ sung các quyền, nghĩa vụ của viên chức Viên chức là người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Do đó, các quyền và nghĩa vụ của viên chức cũng có những nội dung giống như cán bộ, công chức. Tuy nhiên, do tính chất, đặc điểm lao động của viên chức là hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ, nên Luật Viên chức đã quy định các quyền của viên chức theo hướng mở hơn so với cán bộ, công chức nhằm tạo điều kiện để viên chức có thể phát huy tài năng, sức sáng tạo, khả năng cống hiến. Đó là quyền về hoạt động kinh doanh và làm việc ngoài thời gian quy định. Bên cạnh đó, Luật Viên chức cũng đã hoàn thiện hệ thống các nghĩa vụ của viên chức (bao gồm cả những việc viên chức không được làm) phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của viên chức. 4. Đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức - Một trong các nguyên tắc được nhấn mạnh để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức là “việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá viên chức được thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm và căn cứ vào hợp đồng làm việc”. Đây là nguyên tắc đặt nền móng để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức theo chế độ việc làm, nhấn mạnh năng lực, tài năng bên cạnh phẩm chất và trình độ. Bên cạnh đó, Luật Viên chức cũng quy định nguyên tắc bảo đảm quyền chủ động và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu để phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, góp phần đẩy mạnh cải cách khu vực dịch vụ công; thống nhất quản lý nhà nước về đội ngũ viên chức, đẩy mạnh việc giao hoặc phân cấp cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong quản lý viên chức. - Kế thừa quy định về hợp đồng làm việc của pháp luật hiện hành, Luật viên chức đã hoàn thiện các quy định của chế định hợp đồng làm việc. “Người trúng tuyển viên chức phải thực hiện chế độ tập sự, trừ trường hợp đã có thời gian từ đủ 12 tháng trở lên thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng” (Điều 27). - Các nội dung quản lý viên chức cũng được hoàn thiện và đổi mới. Đáng chú ý là: + Việc thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức được thực hiện thông qua thi hoặc xét; + Việc đánh giá viên chức được thực hiện căn cứ vào hợp đồng làm việc đã ký, gắn với kết quả thực hiện công việc, nhiệm vụ; tinh thần, trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân…; + Viên chức có 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc. - Ngoài 4 hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo, cách chức và buộc thôi việc, viên chức bị kỷ luật còn có thể bị hạn chế thực hiện hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp luật có liên quan. 5. Quy định chuyển đổi giữa viên chức và cán bộ công chức (Điều 58) Do đặc thù của Việt Nam, giữa viên chức và cán bộ, công cức luôn có sự liên thông, chuyển đổi giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, Luật Viên chức có quy định các trường hợp cụ thể về việc chuyển đổi này bao gồm: 5.1. Viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập từ đủ 5 năm trở lên thì được xét chuyển thành công chức không qua thi tuyển; 5.2. Viên chức được tiếp nhận, bổ nhiệm vào vị trí việc làm được pháp luật quy định là công chức thì quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm vào vị trí việc làm được pháp luật quy định là công chức đồng thời là quyết định tuyển dụng; 5.3. Cán bộ, công chức được chuyển sang làm viên chức khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật Viên chức; 5.4. Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi hết thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển sang làm viên chức và được bố trí công việc phù hợp; 5.5. Viên chức chuyển sang làm cán bộ, công chức hoặc ngược lại đều được bảo đảm các quyền lợi về chế độ, chính sách. 6. Quy định chuyển tiếp (Điều 59) - Viên chức được tuyển dụng trước ngày 1/7/2003 có các quyền, nghĩa vụ và được quản lý như viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn. Đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục để bảo đảm các quyền lợi, chế độ, chính sách về ổn định việc làm, chế độ tiền lương và các quyền lợi khác mà viên chức đang hưởng. - Viên chức được tuyển dụng từ ngày 1/7/2003 đến ngày Luật Viên chức có hiệu lực (01/01/2012), tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc đã ký kết với đơn vị sự nghiệp công lập, có các quyền, nghĩa vụ và được quản lý theo quy định của Luật Viên chức./. Thái Nguyên Đại (Phòng PBGDPL) Tin mới:
|