Một số điểm mới đáng chú ý trong Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) năm 2017
 Thứ năm, 29 Tháng 6 2017 13:59 - 4201 Lượt xem
In

Ngày 20/6/2017 vừa qua, tại kỳ họp lần thứ 3, với 100% đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội khóa 14 thông qua Luật TGPL (sửa đổi) với nhiều nội dung mới quan trọng, đáp ứng được yêu cầu của công tác TGPL hiện nay, Luật có hiệu lực thi hành kể từ 01/01/2018, thay thế cho Luật TGPL 2006.

Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số điểm mới quan trọng và đáng chú ý trong Luật TGPL (sửa đổi):

Thứ nhất: Lần đầu tiên xác định trong Luật, công tác TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và Nhà nước có trách nhiệm bố trí kinh phí hàng năm cho công tác này. Ngoài ra, đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, Luật TGPL (sửa đổi) còn có quy định ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung ngân sách hàng năm của Trung ương để hỗ trợ việc thực hiện vụ việc phức tạp, điển hình. Đây là nội dung được Luật hóa theo nội dung của Quyết định số 32/2016 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách TGPL cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số các xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ tham gia các vụ việc phức tạp điển hình.

Thứ hai, lần đầu tiên Luật quy định có 02 cơ chế TGPL rõ ràng, đó là TGPL do Nhà nước tổ chức thực hiện và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội. Hoạt động TGPL do Nhà nước tổ chức thực hiện cần tuân theo các quy định của Luật này về đối tượng TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện, hình thức, lĩnh vực TGPL,… Các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL cần bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL. Việc tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện TGPL và đăng ký tham gia TGPL. Các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc. Đối với việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiện nguyện của xã hội theo Luật Luật sư và theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật, không phải thực hiện theo quy định của Luật này.Ví dụ: Người không phải là đối tượng TGPL vẫn được Luật sư, tư vấn viên của các Trung tâm tư vấn thực hiện tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng miễn phí theo hình thức thiện nguyện…

Thứ ba, mở rộng đối tượng được TGPL. Đây là nội dung quan trọng của việc bổ sung lần này, Theo đó, đối tượng TGPL đã được mở rộng hơn nhiều so với Luật năm 2006 (từ 7 nhóm lên 14 nhóm). Cụ thể, các nhóm đối tượng được TGPL theo Luật (sửa đổi) gồm: Người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em (theo Luật trẻ em 2016); người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV (Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện khó khăn về tài chính của người được TGPL quy định tại khoản này).

Thứ tư, nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động TGPL thông qua việc chuẩn hóa đội ngũ những người thực hiện TGPL. Luật quy định Trợ giúp viên pháp lý phải có thời gian làm việc tại Trung tâm TGPL nhà nước, đã được đào tạo nghề luật sư (12 tháng), tập sự TGPL (12 tháng). Với qui định này, Luật TGPL (sửa đổi) nâng tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý ngang với tiêu chuẩn của Luật sư theo Luật Luật sư.

Thứ năm, nâng cao vai trò của Sở Tư pháp trong việc giúp UBND cấp tỉnh thực hiện QLNN về TGPL ở địa phương thông qua việc nắm bắt yêu cầu TGPL và tình hình thực tiễn để lựa chọn ký hợp đồng thực hiện TGPL với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật để bảo đảm đối tượng TGPL ở địa phương được thực thi quyền được TGPL. Đây là quy định mới, Luật quy định Sở Tư pháp được giao nguồn lực tài chính để tổ chức thực hiện, đồng thời có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện. Do đó, việc giao Sở Tư pháp lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật là phù hợp.

Thứ sáu, quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác TGPL. Luật TGPL (sửa đổi) quy định, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật; đồng thời quy định thời hạn cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương về yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo, người bị hại là người được TGPL.

Thứ bảy, tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức TGPL. Luật quy định việc rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh đã được thành lập, bảo đảm hiệu quả hoạt động. Trong trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của Nhân dân, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh. Chi nhánh chỉ được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước, chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL…

Lê Hằng Vân


Tin mới:
Các tin khác: