Hướng dẫn về việc đặt tiền để bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam
 Thứ hai, 14 Tháng 7 2014 07:20 - 1910 Lượt xem
In

Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về đặt tiền để bảo đảm trong tố tụng hình sự, ngày 14/11/ 2013, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC (Thông tư số 17) hướng dẫn về việc đặt tiền để bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm khi có đủ các điều kiện sau đây: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị can, bị cáo có khả năng về tài chính để đặt bảo đảm theo quy định hoặc xem xét đến khả năng tài chính của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần mà không có hoặc không đủ tiền để đặt bảo đảm; có căn cứ xác định rằng sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử; việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự.

Thông tư số 17 cũng chỉ rõ trường hợp không áp dụng biện pháp đặt tiền bảo lãnh: nếu bị can, bị cáo phạm một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; phạm tội rất nghiêm trọng thuộc loại tội phạm về ma túy, tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản; bị tạm giam trong trường hợp bị bắt theo lệnh, quyết định truy nã; bị can, bị cáo là người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; là người nghiện ma tuý; là người tổ chức trong trường hợp phạm tội có tổ chức; hành vi phạm tội gây dư luận xấu trong nhân dân.

Tiền được đặt để bảo đảm: là tiền mặt Việt Nam đồng; thuộc sở hữu hợp pháp của bị can, bị cáo hoặc của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần.

Mức tiền được đặt để bảo đảm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định nhưng không dưới 20 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 80 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; 200 triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng. Đối với các trường hợp như: Bị can, bị cáo thuộc hộ nghèo; là thương binh, bệnh binh, là người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân hoặc được tặng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là con đẻ, con nuôi hợp pháp của Bà mẹ Việt Nam anh hùng, là con đẻ, con nuôi hợp pháp của gia đình được tặng bằng “Gia đình có công với nước”; là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định mức tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai mức trên.

Ngoài ra, Thông tư còn quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm; hủy bỏ việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm và xử lý đối với tiền đã đặt để bảo đảm.

Thông tư số 17 có hiệu lực kể từ ngày 15/01/2014./.

Hồng Hạnh

 


Tin mới:
Các tin khác: