• Trang chủ
  • |
  • Tư vấn pháp luật
  • |
  • Hộp thư công vụ
  • |
  • Liên hệ
  • Giới thiệu hội đồng PBGDPL
  • Thông tin tuyên truyền, PBGDPL
  • Nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật
  • Đề cương tuyên truyền pháp luật
  • Chính sách pháp luật
  • Nghiên cứu trao đổi
  • DS báo cáo viên pháp luật tỉnh
  • Tài liệu hòa giải cơ sở
  • Sự kiện - Bình luận
  • Tiếp cận pháp luật
  • Lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL

Tiểu phẩm tuyên truyền PL

  • Tôi đã sai rồi
  • Cái nương là của nhà mình
  • Bài học đắt giá
  • Dân kiểm tra
  • Như là tai họa

Liên kết bổ ích

  • Bài giảng trực tuyến
  • Tủ sách pháp luật
  • Tờ gấp, pano, áp phích
  • Cổng thông tin điện tử pháp điển
  • Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam

Liên kết web

Thống kê truy cập

Hiện có 7 khách Trực tuyến
HTML Hit Counter
Đề cương giới thiệu Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt

Ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Ngày 28 thánh 11 năm 2008, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 25/2008/L-CTN công bố Luật này.

 I.              SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT

Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu, thu vào một số hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nư­ớc cần điều tiết thu nhập và hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 5 năm 1998, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999 và đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2003 và 2005. Nội dung của những lần sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Tổng kết việc thực hiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003 và 2005 cho thấy Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã đạt được mục tiêu đặt ra khi ban hành Luật là “để hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, và tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hoá và dịch vụ”. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng đã bộc lộ một số hạn chế cần được nghiên cứu, xem xét để bổ sung và sửa đổi cho phù hợp.

1. Kết quả đạt được

- Thuế tiêu thụ đặc biệt đã góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng theo định hướng của Nhà nước. Đối tượng chịu thuế chủ yếu là những loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng như thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh vũ trường hoặc hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cần điều tiết như ô tô, kinh doanh sân gôn... Quy định này là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta cũng như thông lệ quốc tế.

- Thuế tiêu thụ đặc biệt đã đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc quy định lộ trình từng bước điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước; áp dụng một mức thuế suất đối với mặt hàng thuốc lá...

- Thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tổng thu thuế tiêu thụ đặc biệt tăng qua các năm, năm 2003 là 11.046 tỷ đồng, năm 2004 là 14.861 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2003; năm 2005 là 18.326 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2004; năm 2006 là 20.835 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2005 và năm 2007 là 26.564 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2006.

2. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, theo yêu cầu của sự phát triển hiện nay và trong thời gian tới, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện:

Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế:

Quy định hiện nay chưa bao quát hết các trường hợp thuộc diện cần điều tiết bằng thuế tiêu thụ đặc biệt như xe mô tô trên 125 phân khối, tàu bay, du thuyền loại không dùng cho mục đích kinh doanh. Đồng thời chưa qui định rõ các trường hợp không nên thuộc diện chịu thuế như một số loại ô tô phục vụ cho mục đích công cộng, hàng hoá nhập khẩu vào khu phi thuế quan.

Thứ hai, về thuế suất:

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành quy định mức thuế suất áp dụng đối với ô tô chở người được phân biệt theo số chỗ ngồi: ô tô từ 5 chỗ trở xuống thuế suất 50%; ô tô từ 6 đến 15 chỗ thuế suất 30%; ô tô từ 16 đến dưới 24 chỗ thuế suất 15%. Theo quy định này, xe từ 6 chỗ đến 9 chỗ ngồi có mức thuế suất thấp hơn nhiều so với xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống mặc dù xe từ 9 chỗ ngồi trở xuống được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng cá nhân. Mặt khác, việc qui định thuế suất đối với ô tô chỉ theo số chỗ ngồi cũng chưa phù hợp, cần phân định theo dung tích xi lanh như đa số các nước đang thực hiện để thực hiện mục tiêu hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều tiết thu nhập hợp lý, tiết kiệm năng lượng và giảm ô nhiễm môi trường.

Các hoạt động kinh doanh casino, trò chơi điện tử có thưởng và kinh doanh đặt cược là các dịch vụ Nhà nước không khuyến khích, do đó cần điều chỉnh mức thuế suất cho phù hợp. Đối với kinh doanh gôn, thuế suất 10% cũng cần phải xem xét điều chỉnh cho hợp lý.

Thứ ba, về hình thức văn bản:

Thuế tiêu thụ đặc biệt được thể hiện trong 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005. Mặt khác, Luật quản lý thuế được Quốc hội thông qua năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007) đã bãi bỏ các quy định về quản lý thuế trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành. Với nhiều văn bản cùng có quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt nên chưa tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.

3. Về thực hiện cam kết quốc tế

- Đối với mặt hàng rượu: Theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới - WTO (tức là từ năm 2010), tại Việt Nam tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm.

- Đối với mặt hàng bia: Tương tự như rượu, theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm (%) chung đối với các loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì.

Để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, thực hiện các cam kết quốc tế về thuế tiêu thụ đặc biệt thì cần thiết phải sửa đổi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA VIỆC SỬA ĐỔI LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT

Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này nhằm đảm bảo các mục tiêu sau:

- Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý;

- Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát, và không gây đột biến trong sản xuất, tiêu dùng;

- Thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế;

- Bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT

Nội dung sửa đổi lần này làm thay đổi kết cấu và số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành. Mặt khác, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã có 2 văn bản Luật sửa đổi, bổ sung. Do đó, để tạo thuận lợi cho việc thực hiện, lần này Quốc hội đã ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để thay thế cho Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005.

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt gồm 4 chương, 11 điều, cụ thể như sau:

1. Chương I. Những quy định chung, gồm 4 điều (từ Điều 1 đến Điều 4): quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, đối tượng không thuộc diện chịu thuế, người nộp thuế.

1.1. Phạm vi điều chỉnh

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành quy định cả về nội dung chính sách và về quản lý thuế. Luật quản lý thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế bao gồm đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, quyết toàn thuế, xử lý vi phạm, khen thưởng để thay thế cho các quy định về quản lý của các Luật thuế hiện hành. Vì vậy, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này chỉ quy định các nội dung về chính sách thuế, cụ thể là quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, hoàn thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.

1.2. Đối tượng chịu thuế

So với Luật hiện hành, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này có một số điểm mới như sau:

- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này bổ sung ô tô dưới 24 chỗ ngồi vừa chở người vừa chở hàng vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Luật hiện hành quy định ô tô chở người dưới 24 chỗ ngồi thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trên thực tế, có loại xe dưới 24 chỗ ngồi mang tính chất lưỡng dụng vừa chở người vừa chở hàng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân (như xe VAN, xe pick-up có từ hai hàng ghế ngồi trở lên). Để phù hợp mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt và bảo đảm tính bao quát của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã bổ sung quy định về loại xe này vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này bổ sung "các chế phẩm khác từ cây thuốc lá” vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành quy định thuốc lá điếu, xì gà thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trên thị trường hiện nay ngoài thuốc lá điếu, xì gà còn có các chế phẩm khác từ cây thuốc lá (dùng để nhai, ngửi). Do đó, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này bổ sung quy định về các chế phẩm khác từ cây thuốc lá vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để bao quát hết các sản phẩm thuốc lá. 

 - Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này bổ sung xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Qua khảo sát, đánh giá cho thấy xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối chủ yếu là loại xe tay ga, có giá trị lớn, chủ yếu được sử dụng và lưu thông ở các thành phố lớn, người sử dụng phần đông là bộ phận dân cư có thu nhập cao. Việc đưa loại xe này vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cơ bản không ảnh hưởng đến các đối tượng sử dụng xe máy là bà con nông dân và người lao động. Do vậy, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này bổ sung quy định về xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để định hướng tiêu dùng, khuyến khích sử dụng năng lượng có hiệu quả, tiết kiệm nhiên liệu và giảm ô nhiễm môi trường.

- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này bổ sung tàu bay và du thuyền (trừ tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch) vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Tại Việt Nam thời gian qua đã xuất hiện những hàng hoá cao cấp là tàu bay, du thuyền. Đây là những hàng hoá phục vụ cho các đối tượng có thu nhập cao trong xã hội. Do sự phát triển của nền kinh tế, một bộ phận dân cư có thu nhập cao có khả năng sở hữu tàu bay, du thuyền để phục vụ nhu cầu tiêu dùng riêng cho tổ chức, cá nhân, gia đình. Vì vậy, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này đã bổ sung quy định về tàu bay và du thuyền không sử dụng vào mục đích kinh doanh vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này đã thay thế cụm từ "Trò chơi bằng máy jackpot" bằng cụm từ "Trò chơi điện tử có thưởng".

Luật hiện hành quy định trò chơi bằng máy jackpot chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, đây là một loại máy cụ thể. Trên thực tế hiện nay xuất hiện loại máy điện tử khác (như máy slot machines...) cũng đang được sử dụng cho các trò chơi điện tử có thưởng, tính chất của nó tương tự như trò chơi bằng máy jackpot. Do vậy, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này đã thay thế cụm từ "Trò chơi bằng máy jackpot" bằng cụm từ "Trò chơi điện tử có thưởng" để bảo đảm tính bao quát của Luật.

1.3. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt

So với Luật hiện hành, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này có một số quy định mới như sau:

- Quy định tàu bay và du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch không thuộc diện chịu thuế nhằm không làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải và du lịch.

- Quy định xe cứu thương; xe ô tô chở phạm nhân; xe ô tô tang lễ; xe ô tô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên; xe ô tô chạy trong khu vui chơi, giải trí, thể thao không đăng ký lưu hành và không tham gia giao thông không thuộc diện chịu thuế.

Thực tế hiện nay có một số loại xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi nhưng được sử dụng cho mục đích chuyên dùng như: xe cứu thương, xe chở phạm nhân, xe tang lễ; xe ô tô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên (xe buýt nội thành và liên tỉnh, xe buýt vận chuyển khách trong sân bay, nhà ga). Để phù hợp với mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này đã bổ sung quy định về các loại ô tô nêu trên vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

-   Quy định hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan, hàng hoá từ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hoá được mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau, trừ xe ô tô chở người dưới 24 chỗ không thuộc diện chịu thuế.

Đối với hàng hoá nhập khẩu vào khu phi thuế quan, theo qui định của pháp luật hiện hành, hàng hoá từ khu phi thuế quan xuất ra nước ngoài, hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hoá từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác không phải chịu các loại thuế gián thu như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng. Để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống chính sách thuế, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã quy định bổ sung các loại hàng hoá này vào đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Riêng đối với ô tô chở người dưới 24 chỗ ngồi được nhập khẩu vào các khu phi thuế quan nhưng chủ yếu được sử dụng trong nội địa Việt Nam thì vẫn thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để tránh gian lận thương mại và phù hợp với tình hình thực tế.

 2. Chương II. Căn cứ tính thuế, gồm 3 điều (từ Điều 5 đến Điều 7): quy định về căn cứ tính thuế, giá tính thuế, thuế suất.

2.1. Căn cứ tính thuế

Căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và thuế suất. Số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp bằng giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt nhân với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt.

2.2. Giá tính thuế

So với Luật hiện hành, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này có quy định mới như sau:

Theo quy định của Luật hiện hành thì giá tính thuế đối với hàng hóa sản xuất trong nước là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt; đối với hàng hóa nhập khẩu là giá tính thuế nhập khẩu cộng thuế nhập khẩu. Giá tính thuế đối với mặt hàng bia lon hiện hành được trừ giá trị vỏ lon. Đối với bia chai giá tính thuế là giá bán của cơ sở sản xuất và trên thực tế đại bộ phận các cơ sở sản xuất bia áp dụng chính sách đổi vỏ chai, từ đó giá tính thuế thực chất đối với bia chai không bao gồm giá trị vỏ chai.

Để thực hiện được mục tiêu hướng dẫn tiêu dùng đối với mặt hàng bia, đồng thời đảm bảo thực hiện cam kết khi gia nhập WTO áp dụng một mức thuế suất đối với mặt hàng bia, đồng thời không làm giảm lớn tới số thu ngân sách, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này đã quy định rõ giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ chưa bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng.

Việc quy định giá tính thuế là giá do cơ sở sản xuất bán ra, vì vậy giá tính thuế đối với bia lon, bia chai là giá bao gồm cả vỏ lon, vỏ chai. Mặt khác, việc không trừ vỏ lon, vỏ chai là phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm bình đẳng với các mặt hàng khác cũng có bao bì như rượu, thuốc lá.

2.3. Thuế suất

So với Luật hiện hành, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này có quy định mới như sau:

a. Đối với mặt hàng rượu, bia

- Đối với mặt hàng rượu:

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành qui định thuế suất đối với mặt hàng rượu được phân biệt theo nồng độ cồn, trong đó rượu dưới 20 độ, rượu hoa quả, rượu thuốc thuế suất 20%; rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ thuế suất 30%; rượu từ 40 độ trở lên thuế suất 65%. 

Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất rượu trong nước chủ yếu sản xuất loại rượu có nồng độ cồn dưới 40 độ, rượu có nồng độ cồn từ 20 độ đến dưới 40 độ chiếm tỷ trọng lớn về sản lượng (95%) và số thu thuế tiêu thụ đặc biệt (93,7%). Rượu từ 40 độ trở lên chiếm tỷ trọng nhỏ về sản lượng (5%) và số thu thuế tiêu thụ đặc biệt (6,3%).

Để thực hiện cam kết WTO, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này quy định mức thuế suất đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở xuống là 25% (tăng 5% so với trước đây); rượu từ 20 độ trở lên là 45%, áp dụng từ ngày 01/01/2010 đến hết ngày 31/12/2012. Sau thời gian này, thuế suất đối với rượu từ 20 độ trở lên sẽ là 50% (tăng thêm 5%).

Đối với mặt hàng rượu thuốc, rượu hoa quả, Luật cũng áp dụng thuế suất theo độ cồn như các loại rượu khác để đảm bảo sự minh bạch của chính sách và chống gian lận trong thực hiện.

- Đối với mặt hàng bia:

Luật hiện hành quy định bia chai, bia lon thuế suất 75%; bia hơi, bia tươi thuế suất là 40% (năm 2006-2007 là 30%). 

Để đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế khi gia nhập WTO, trên cơ sở phân tích tình hình thực tế sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất bia trong nước, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã quy định mức thuế suất áp dụng từ ngày 01/01/2010 đến ngày 31/12/2012 là 45%. Từ ngày 01/01/2013 sẽ áp dụng mức thuế suất là 50% (tăng thêm 5%).

Áp dụng mức thuế suất 50% đối với bia lon là tương đương với mức thuế suất hiện hành (75% cho trừ vỏ lon) do đó không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh bia lon; đối với bia chai có lợi do được giảm mức thuế suất; đối với bia hơi tăng thuế suất, sản xuất trong giai đoạn đầu tuy có gặp khó khăn nhưng tác động sẽ không quá lớn, nếu các doanh nghiệp có cải tiến, sắp xếp lại sản xuất và chuyển đổi cơ cấu mặt hàng thì sẽ duy trì tốt được sản xuất.

Thêm vào đó, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt điều chỉnh tăng thuế suất theo lộ trình (trước năm 2013 và sau năm 2013) là nhằm hạn chế thấp nhất tác động đối với các cơ sở sản xuất bia hơi, mặt hàng truyền thống được nhiều người ưa chuộng, và có thời gian cho doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức, sản xuất, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng này nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đúng cam kết quốc tế.

b.  Đối với mặt hàng ô tô

Theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, mức thuế suất áp dụng đối với ô tô được phân biệt theo số chỗ ngồi. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tại nhiều nước bên cạnh việc sử dụng tiêu chí số chỗ ngồi, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô còn được quy định theo dung tích xi lanh của máy. Dung tích xi lanh càng lớn thì giá trị xe càng lớn và thuế suất càng cao. Quy định này phù hợp với mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt là điều tiết tiêu dùng và góp phần tiết kiệm nhiên liệu, giảm ô nhiễm môi trường, nhất là trong điều kiện hiện nay, giá nhiên liệu trên thế giới đang ở mức cao và vấn đề xử lý môi trường đang là thách thức đặt ra cho mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn cầu.

Thuế suất hiện hành đối với ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống là 50%, từ 6 đến 15 chỗ ngồi là 30%. Việc quy định trên trong thực tế thực hiện đã bộc lộ hạn chế, loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi được sử dụng chủ yếu làm phương tiện đi lại cho cá nhân, song chỉ chịu mức thuế suất bằng 60% so với mức thuế suất áp dụng cho xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống. Các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan... các loại xe chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống đều ở cùng một nhóm và chịu cùng một mức thuế suất theo dung tích xi lanh của máy. Do đó, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt lần này quy định mức thuế suất đối với ô tô như sau:

- Đối với xe ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống, quy định mức thuế suất phân biệt theo dung tích xi lanh với nguyên tắc dung tích xi lanh lớn hơn sẽ phải chịu mức thuế suất cao hơn, cụ thể:

+ Dung tích từ 2.000 cc trở xuống         :     45%

+ Dung tích trên 2.000 cc đến 3.000 cc    :    50%

+ Dung tích trên 3.000 cc                         :  60%

Thực hiện theo các mức thuế suất trên sẽ không ảnh hưởng đến sản xuất trong nước đối với loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống mà còn có lợi hơn (giảm từ 50% còn 45% đối với xe dung tích từ 2.000 cc trở xuống), trong cơ cấu xe sản xuất trong nước loại có dung tích xi lanh trên 3.000 cc chịu mức thuế suất tăng từ 50% lên 60% chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 3% số lượng xe sản xuất và tiêu thụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt). Hiện nay các loại xe chở người dưới 24 chỗ sản xuất trong nước chủ yếu có dung tích xi lanh từ 2.000 cc trở xuống (chiếm khoảng 60% số lượng xe sản xuất và tiêu thụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt).

Đối với xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ chịu tác động của việc điều chỉnh cách tính thuế nêu trên do mức thuế suất dự kiến được điều chỉnh tăng từ 30% lên 45%, 50% và 60% tuỳ theo dung tích xi lanh. Tuy nhiên, trong từng doanh nghiệp sản xuất xe ô tô hiện nay đều có sản xuất cả loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống và xe từ 6 đến 9 chỗ do đó về cơ bản sẽ không ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, loại xe từ 6 đến dưới 9 chỗ có dung tích trên 3.000 cc với mức tăng thuế cao nhất (từ 30% lên 60%), hiện trong nước sản xuất không đáng kể, chiếm khoảng 0,8% số xe sản xuất trong nước thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Thực hiện phương án này, số thu ngân sách Nhà nước từ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô dự kiến sẽ tăng khoảng trên 700 tỷ đồng/năm, trong đó số thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe sản xuất trong nước tăng khoảng trên 400 tỷ đồng/năm.

- Đối với loại xe từ 10 chỗ đến dưới 16 chỗ ngồi, giữ nguyên mức thuế suất hiện hành là 30%.

- Đối với xe từ 16 chỗ đến dưới 24 chỗ ngồi: giữ nguyên mức thuế suất hiện hành là 15%.

Việc giữ nguyên mức thuế suất hiện hành đối với các loại xe từ 10 đến dưới 24 chỗ là phù hợp với thực tế vì những loại xe này chủ yếu là phương tiện phục vụ sản xuất, thương mại, dịch vụ, không sử dụng cho mục đích cá nhân. Nếu đặt vấn đề tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các chủng loại xe này sẽ làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng. Đồng thời đối với loại xe này cũng không cần thiết phải chia theo dung tích xi lanh vì loại xe càng chở được nhiều người thì dung tích xi lanh càng lớn, nếu đánh thuế cao tỷ lệ thuận với dung tích xi lanh như xe du lịch cá nhân thì sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu khuyến khích sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng.

- Đối với xe ô tô thiết kế vừa chở người vừa chở hàng (như xe VAN, xe pick-up có hai hàng ghế ngồi trở lên), đề nghị quy định thêm một dòng riêng trong Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất 15% để thuận lợi trong việc thực hiện, tránh áp dụng tuỳ tiện. 

- Đối với loại xe ô tô sử dụng nhiên liệu hỗn hợp như xăng kết hợp với điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng, Luật lần này bổ sung một dòng riêng trong Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất bằng 70% mức thuế suất áp dụng đối với ô tô cùng loại.

- Đối với loại xe ô tô chạy hoàn toàn bằng năng lượng sinh học, Luật lần này bổ sung một dòng riêng trong Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất bằng 50% mức thuế suất áp dụng đối với ô tô cùng loại.

- Đối với loại xe ô tô chạy bằng điện, đây là loại xe sử dụng hoàn toàn bằng năng lượng sạch và trên thị trường chưa xuất hiện loại xe này. Hiện nay, loại xe này đang được nghiên cứu thử nghiệm và sẽ xuất hiện sản phẩm thương mại trong tương lai gần và đây là loại xe có giá thành cao. Do đó để khuyến khích sản xuất và sử dụng loại xe này, Luật qui định mức thuế suất cụ thể như sau:

+       Loại từ 9 chỗ ngồi trở xuống

+       Loại chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ ngồi

+       Loại chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi

+       Xe thiết kế vừa chở người vừa chở hàng (xe VAN, xe Pick-up có từ hai hàng ghế trở lên)

25%

15%

10%

10%

c. Đối với xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối

Để hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng đối với xe mô tô có dung tích xi lanhtrên 125 phân khối, Luật quy định mức thuế suất là 20%.  

d. Đối với tàu bay và du thuyền

Để điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng đối với tàu bay và du thuyền phục vụ cho người tiêu dùng có thu nhập cao, Luật quy định mức thuế suất là 30% (trừ loại sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch). Các nước trong khu vực như Indonesia quy định thuế tiêu thụ đặc biệt đối với tàu bay là 35%, Thái Lan, Trung Quốc, Phi-lip-pin quy định thuế tiêu thụ đặc biệt đối với du thuyền từ 10% - 20%

đ. Đối với kinh doanh vũ trường, mát-xa, ka-ra-ô-kê

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành qui định mức thuế suất đối với dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát-xa, ka-ra-ô-kê là 30%. Kinh doanh vũ trường loại hình dịch vụ có tính chất nhạy cảm, dễ bị lợi dụng phát sinh tệ nạn xã hội cần hạn chế. Theo đó, Luật lần này điều chỉnh tăng mức thuế suất đối với kinh doanh vũ trường từ 30% lên 40%, đối với mát-xa, ka-ra-ô-kê giữ nguyên mức thuế suất hiện hành.

e. Đối với kinh doanh casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành quy định mức thuế suất đối với dịch vụ casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược là 25%. Đây là loại hình dịch vụ Nhà nước không khuyến khích kinh doanh và tiêu dùng. Do đó, Luật lần này điều chỉnh mức thuế suất lên 30%.

 

 

g. Đối với kinh doanh gôn

Thuế suất hiện hành là 10% đối với kinh doanh gôn. Đây là loại hình dịch vụ cao cấp, thu hút người chơi là những người có thu nhập cao trong xã hội, do đó Luật lần này điều chỉnh mức thuế suất lên 20%. 

3.Chương 3. Hoàn thuế, khấu từ thuế, giảm thuế, gồm 2 điều (Điều 8, Điều 9): quy định về hoàn thuế, khấu trừ thuế, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.

Trong đó quy định người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn do thiên tai, tai nạn bất ngờ được giảm thuế. Mức giảm thuế được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm xảy ra thiên tai và không vượt quá giá trị tài sản bị thiệt hại sau khi được bồi thường (nếu có).

4. Chương IV. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 10, Điều 11): quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành.

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 4 năm 2009; các quy định đối với mặt hàng rượu và bia có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.

Bãi bỏ các quy định tại Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH10; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 08/2003/QH11; Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng số 57/2005/QH11, trừ các quy định đối với mặt hàng rượu và bia tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2009.

 


Tin mới:
  • Đề cương giới thiệu Luật Bảo hiểm Y tế
  • Đề cương giới thiệu Luật Công nghệ cao
  • Đề cương giới thiệu Luật giao thông đường bộ
  • Đề cương giới thiệu Luật Quốc tịch
  • Đề cương giới thiệu Luật Thi hành án dân sự
Các tin khác:
  • Hội nghị triển khai công tác pháp chế tài chính năm 2011
  • Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật bầu cử Đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân
<< Trang trước   

 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỈNH QUẢNG NAM

Trụ sở: 06 Nguyễn Chí Thanh - Thành phố Tam Kỳ - tỉnh Quảng Nam

Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Quảng Nam

Điện thoại: 0235.3852244 - Fax:0235.3852244 - Email: stp@quangnam.gov.vn

Email: stp@quangnam.gov.vn | Website: www.pbgdpl.quangnam.gov.vn

Ghi rõ nguồn "www.pbgdpl.quangnam.gov.vn" khi đưa lại thông tin từ website này